✨José Toral y Velázquez
José Toral y Velázquez (18 tháng 8 năm 1832 – 10 tháng 7 năm 1904) là một Thiếu tướng quân đội Tây Ban Nha, chỉ huy Sư đoàn thuộc Quân đoàn IV đóng ở Cuba trong chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ. Ông đã đầu hàng và giao lại thành phố Santiago de Cuba vào ngày 17 tháng 7 năm 1898, sau trận Bao vây Santiago.
Thời thơ ấu và sự nghiệp
Toral sinh ngày 18 tháng 8 năm 1832, tại thành phố tây nam Tây Ban Nha Mazarrón. Tại thời điểm đó, vùng này trải qua sự bùng nổ công nghiệp khai khoáng, nhưng gia đình Toral có một truyền thống lâu dài phục vụ trong quân ngũ. Ông theo học Academia General Militar khi 10 tuổi, và phục vụ trong khâu điều hành quân đội Tây Ban Nha. Ông tham gia các chức vụ thực tế từ thập niên 1840 đến thập niên 1870, đóng ở các tiền đồn trong cũng như ở thuộc địa trong suốt các cuộc nổi loạn. Ông được thăng làm chuẩn tướng vào năm 1889. Năm 1895, ông được chỉ định làm chỉ huy quân khu Madrid, có nhiệm vụ đảm bảo an ninh cho các tòa nhà chính phủ và cơ quan cũng như chức năng nghi lễ quân đội.
Vào cuối năm 1895, Toral tình nguyện phục vụ tại Cuba. Ông được bổ nhiệm làm chỉ huy quân đội Tây Ban Nha tại tiền đồn Guantánamo, nơi ông tham gia vào chiến tranh giành Độc lập Cuba. Khi chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ nổ ra vào tháng 4 năm 1898, Trung tướng Arsenio Linares y Pombo chỉ định Toral đóng tại tiền đồn Santiago de Cuba.
Trận đánh và đầu hàng tại Santiago de Cuba
Ngày 1 tháng 7 năm 1898, Linares bị thương trong Trận đồi San Juan. Toral được phong làm chỉ huy tạm quyền của Quân đoàn IV. Sau thất bại tại San Juan, phần lớn lực lượng phòng thủ rút về nội thành. Hải quân Hoa Kỳ cắt đứt cáp điện báo dẫn đến Guantánamo vào ngày 7 tháng 6, Nên khi Toral gửi yêu cầu cho Chuẩn tướng Félix Pareja Mesa tăng viện, Mesa đã không bao giờ nhận được yêu cầu. Shafter liên lạc lai với Toral vào cuối ngày 3 tháng 7, và yêu cầu đầu hàng lần thứ hai. Shafter cảnh báo ông rằng thành phố sẽ bị pháo kích vào ngày 5 tháng 7 nếu không đầu hàng. Toral tiếp tục đàm phán nhằm kéo dài thời gian. Ngày 8 tháng 7, Toral chấp nhận đầu hàng muốn đồng ý với yêu cầu. Nhưng Tổng thống William McKinley sau khi xem xét tình hình đã yêu cầu đầu hàng vô điều kiện. nhỏ|300x300px|Tướng Velázquez đầu hàng tại tại Santiago de Cuba, 17 tháng 7 năm 1898 Shafter cảnh báo Toral việc pháo kích thành phố Santiago de Cuba sẽ diễn ra vào ngày 10 tháng 7 trừ khi ông ta đầu hàng, và Toral lại khước từ yêu cầu một lần nữa. Hải quân và Lục quân Hoa Kỳ bắt đầu pháo kích thành phố lúc 4:00 giờ chiều ngày 10 tháng 7, và chấm dứt vào 1:00 giờ chiều ngày 11 tháng 7. Toral giữ vững trận địa và tiếp tục đàm phán. Shafterd đưa ra đề nghị tất cả tù nhân chiến tranh Tây Ban Nha sẽ được trở về nước bằng chi phí của Hoa Kỳ tài trợ và cho phép Toral sơ tán lực lượng và vũ khí của mình nếu ông chấp nhận đầu hàng. Trong khi đó, Tướng Ramón Blanco y Erenas, chỉ huy tối cao của lực lượng Tây Ban Nha tại, gây áp lực lên Toral để ông đầu hàng và tránh cho thành phố bị pháo kích. Chính phủ Tây Ban Nha tại Madrid cũng gây áp lực để Toral đầu hàng. Toral bị buộc phải tuân theo. Nhưng người Mỹ cắt cắt nguồn nước của thành phố và tình hình cho dân thường càng bi đát hơn. Khi đề cập đến tên tuổi của ông sau chiến tranh, Toral đã yêu cầu thành công từ "đầu hàng có điều kiện" hơn là "đầu hàng" phải được sử dụng ở tất cả sử liệu, và binh lính dưới quyền được giữ lại vũ khí. Tây Ban Nha và Hoa Kỳ ký một hiệp định đình chiến mang tên "Lộ trình Hòa Bình", ngày 12 tháng 8.
Toral khởi hành về Tây Ban Nha ngày 15 tháng 8 năm 1898, bằng điều khoản ký trong Lộ trình Hòa Bình. Tuy nhiên người Tây Ban Nha lại quy sự sụp đổ của quân đội Tây Ban Nha tại Cuba cho ông và sự trở về của ông vấp phải sự chống đối của công chúng qua các cuộc tuần hành. Toral bị tòa án binh truy tố vì đầu hàng tại Santiago de Cuba. Ông được Julián Suárez Inclán bảo vệ, và miễn tội vào ngày 9 tháng 8 năm 1899.
Sự tấn công của công luận vẫn tiếp tục xảy ra cho đến cuối đời ông. Ông trở nên trầm cảm, và dần hóa điên. Một vài tháng trước khi mất, ông nhập viện tâm thần tại Carabanchel, ngoại ô Madrid. Ông mất ngày 10 tháng 7 năm 1904.