✨John Gillespie Magee Jr.

John Gillespie Magee Jr.

John Gillespie Magee, Jr. (9.6.1922 – 11.12.1941) đã bị tử nạn do va chạm máy báy trên không phận Lincolnshire, Anh trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã phục vụ trong Không lực Hoàng gia Canada, trước khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến. Ông rất nổi tiếng về bài thơ High Flight (Chuyến bay cao).

Thời niên thiếu

John Gillespie Magee sinh tại Thượng Hải, Trung Quốc. Cha ông là người Mỹ, còn mẹ là người Anh, cả hai đều là nhà truyền giáo của Anh giáo. Mặc dù tình yêu của chàng không được đáp lại, chàng vẫn giữ tình bạn với Elinor và gia đình cô.

Magee đã sang thăm Hoa Kỳ năm 1939. Do Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chàng không thể trở về trường Rugby để học nốt năm cuối, nên thay vào đó chàng đã vào học ở trường Avon Old Farms School tại Avon, Connecticut. Tháng 7 năm 1940, Magee được cấp một học bổng vào học Đại học Yale, nhưng chàng không ghi danh theo học mà chọn đăng ký vào Không lực Hoàng gia Canada trong tháng 10 cùng năm.

Sự nghiệp

Magee Jr. gia nhập Không lực Hoàng gia Canada tháng 10 năm 1940 và được huấn luyện bay ở "Trường Huấn luyện bay cơ bản số 9" tọa lạc ở Sân bay St. Catharines, Ontario, sau đó là "Trường Huấn luyện bay phục vụ" (Service Flying Training School) số 2 ở RCAF Station Uplands (Ottawa). Magee đã đậu bằng phi công trong tháng 6 năm 1941.

Ngay sau kỳ thi tốt nghiệp, Magee được thăng cấp Pilot Officer (sĩ quan phi công), và được gửi sang Anh. Chàng được đưa vào học ở Operational Training Unit (Đơn vị Huấn luyện tác chiến) số 53 tại RAF Llandow, Wales. Sau khi tốt nghiệp, chàng được phân công về No. 412 Squadron RCAF (Phi đội Vận tải số 412 của Không quân Hoàng gia Anh),

Magee được mai táng tại Nghĩa trang Thánh giá (Holy Cross Cemetery) Scopwick ở Lincolnshire, Anh vào lúc 2:30 giờ chiều ngày thứ bẩy 13.12.1941. Trên mộ, người ta đã khắc câu đầu và câu cuối bài thơ High Flight của chàng:

"Oh! I have slipped the surly bonds of Earth…
…Put out my hand, and touched the face of God."

Ít lâu sau khi qua đời, Hermann Hagedorn đã viết quyển tiểu sử của Magee nhan đề Sunward I've Climbed, The Story of John Magee, Poet and Soldier, 1922–1941, xuất bản năm 1942.

Bài thơ High Flight

Sau khi qua đời, Magee trở nên nổi tiếng về bài thơ High Flight theo thể sonnet, mà chàng bắt đầu làm ngày 18.8.1941, khi đồn trú tại Đơn vị Huấn luyện tác chiến số 53 ở Căn cứ RAF Llandow, xứ Wales, chỉ mấy tháng trước khi qua đời. Trong chuyến bay thứ 7 của mình trên máy bay Supermarine Spitfire, chàng đã bay cao tới 33.000 feet. Khi đang tiếp tục bay lên cao, chàng đã chợt nhớ tới những lời mà chàng đã đọc trong một bài thơ khác — "To touch the face of God." (Chạm tới dung nhan Thiên Chúa) – nên đã hoàn tất bài thơ này ngay sau khi hạ cánh.

Dường như, người đầu tiên đọc bài thơ này của Magee trong cùng ngày ở nhà ăn sĩ quan là viên sĩ quan phi công Michael Le Bas, bạn của chàng (sau này trở thành Air Vice-Marshal (tương đương thiếu tướng Không Quân), chỉ huy No. 1 Group RAF).

Magee đã chép bài thơ này vào mặt sau của một trang thư gửi cho cha mẹ. Cha của chàng - lúc đó làm mục sư phó của Nhà thờ thánh Gioan của Giáo hội Tân giáo ở Washington, DC. – đã in lại bài thơ này trong các ấn phẩm nhà thờ. Bài thơ được phổ biến rộng rãi nhờ những nỗ lực của Archibald MacLeish, lúc đó là quản thủ Thư viện Quốc hội Mỹ. Ông đã đưa bài thơ này vào trong một cuộc triển lãm những bài thơ được gọi là "Đức tin và Tự do" tại Thư viện Quốc hội Mỹ vào tháng 2 năm 1942. Bản sao của bản thảo bài thơ này hiện vẫn còn lưu ở Thư viện Quốc hội Mỹ.

Nguồn thi hứng

Những từ chót trong bài thơ High Flight — "And touched the face of God" (và chạm tới dung nhan Thiên Chúa)— cũng có thể tìm thấy trong một bài thơ của Cuthbert Hicks, xuất bản trước đó 3 năm trong tuyển tập Icarus: An Anthology of the Poetry of Flight. Hai câu chót trong bài thơ The Blind Man Flies của Cuthbert Hicks như sau: :For I have danced the streets of heaven, :And touched the face of God.

Tuyển tập nói trên cũng có bài thơ New World của G. W. M. Dunn, trong đó có câu "on laughter-silvered wings". Dunn cũng viết "the lifting mind", một câu khác mà Magee dùng trong bài High Flight, nhắc tới câu "the shouting of the air", so với sâu, "chased the shouting wind" của Magee. Một câu khác của Magee, "The high untrespassed sanctity of space", gần giống với câu "Across the unpierced sanctity of space" trong bài thơ Dominion over Air trong tuyển tập, được in trước đây trong RAF College Journal.

Việc sử dụng bài thơ

thumb|thumbtime=15|right|Tổng thống Mỹ [[Ronald Reagan nói chuyện với quốc dân sau vụ thảm họa tàu con thoi Challenger]]

Trong tháng 4 và tháng 5 năm 1942, các ngôi sao Hollywood như Laurel and Hardy, Cary Grant, Bing Crosby, và Bob Hope đã tham gia chuyến Hollywood Victory Caravan, chuyến đi khắp nước Mỹ với sứ mạng huy động dân mua trái phiếu chiến tranh của chính phủ Mỹ. Nữ diễn viên nổi tiếng Merle Oberon đã ngâm bài thơ High Flight trong các show trình diễn trong chuyến đi nói trên. Trong buổi trình diễn của đoàn ở Loew's Capitol Theatre tại Washington, D.C. ngày 30.4.1942 trước khi ngâm bài thơ High Flight, Oberon đã cho biết có sự hiện diện của ông bố và người em trai Christopher Magee của Magee Jr.

Bài thơ High Flight được các phi công và các nhà du hành vũ trụ yêu thích. Đó là bài thơ chính thức của Không lực Hoàng gia Canada và của Không quân Hoàng gia Anh, và cũng được các sinh viên sĩ quan khóa 4 của Học viện Không quân Hoa Kỳ đọc thuộc lòng, nơi bài thơ có thể được xem trên màn hình hiển thị ở "Cadet Field House". Những câu trích dẫn từ bài thơ này xuất hiện trên nhiều tấm bia mộ ở Nghĩa trang quốc gia Arlington. Bài thơ này được hiển thị trên các bảng trong Nhà bảo tàng Chiến tranh Canada ở Ottawa, Nhà bảo tàng Không quân Quốc gia Canada ở Trenton, Ontario. Bài thơ này cũng là chủ đề của một màn hình hiển thị thường xuyên trong Nhà bảo tàng Quốc gia của Không quân Hoa Kỳ ở Dayton, Ohio. Tướng Robert Lee Scott, Jr. cũng đã đưa bài thơ này vào quyển God is My Co-Pilot của ông.

Phi hành gia Michael Collins đã mang theo một thẻ mục lục có đánh máy bài thơ này trên chuyến bay phi thuyền Gemini 10 của mình, và cũng đưa bài thơ này vào quyển tự truyện Carrying The Fire của ông. Cựu giám đốc kiểm soát các chuyến bay của NASA Gene Kranz đã trích dẫn câu đầu của bài thơ trong quyển Failure Is Not An Option của ông. Tổng thống Ronald Reagan đã dùng một phần bài High Flight trong diễn văn trước quốc dân do Peggy Noonan viết, sau vụ Thảm họa tàu con thoi Challenger ngày 28.1.1986.

Các chuyển thể nhạc

Miklós Rózsa là người đầu tiên phổ nhạc bài thơ High Flight cho giọng tenor năm 1942. Bản này được xuất bản trong tập Five Songs của ông năm 1974. Nhà soạn nhạc Bill Pursell đã soạn một bản cải biên bài thơ với lời kể cho Ban nhạc của Không quân Hoa Kỳ, đã được phát sóng trên show phát thanh cuối thập niên 1940. Nhiều ca khúc và tác phẩm giao hưởng được soạn dựa trên bài thơ của Magee, trong đó có bản phổ nhạc năm 2008 của Bob Chilcott, được ban nhạc King's Singers trình diễn lần đầu ngày 1.5.2008.

Bài thơ này đã được nhiều nhà soạn nhạc phổ nhạc, trong đó có John Denver trong album It's About Time năm 1983 của ông và nhà soạn nhạc Christopher Marshall, mà bản nhạc được trình diễn lần đầu bởi "The Orlando Chorale" với nhạc sĩ chơi kèn Saxophone George Weremchuk (Orlando, Florida) trong tháng 3 năm 2009, dưới sự điều khiển của Gregory Ruffer. Buổi trình diễn đầu tiên bản nhạc phổ lời mang tên "Even Such Is Time", từ bài Requiem của Gabriel Fauré, với những bản văn phi phụng vụ thêm vào – trong đó có bài High Flight - được trinh diễn bởi "Nantwich Choral Society", dưới sự điều khiển của John Naylor ngày thứ bẩy 26.3.2011 tại Nhà thờ Đức Bà Nantwich, Cheshire. Nhạc phổ do Andrew Mildinhall - cựu nhạc sĩ chơi đại phong cầm của nhà thờ - viết, và ông đã đệm đàn cho ban "Northern Concordia Orchestra" trong buổi trình diễn.

Nhà soạn nhạc người Mỹ James Curnow đã được Ban nhạc "Graduates Association of Tenri High School" ở Nara, Nhật Bản đặt viết một bài cho concert band nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 50 của Hiệp hội. Bài này có tên là "Where Never Lark or Eagle Flew" với phụ đề "dựa trên bài thơ của John Gillespie Magee, Jr.". Năm 2012, nhà soạn nhạc người Úc Daniel Walker đã được North Sydney Boys High School đặt sáng tác một bản nhạc nhân dịp lễ kỷ niệm bách chu niên của trường. Bản nhạc mang tên 'Through Footless Halls of Air', lời lấy từ bài thơ High Flight, được viết cho ban hợp xướng và dàn khí nhạc giao hưởng.

Những sử dụng khác trên phương tiện truyền thông

Nhiều khán giả truyền hình Mỹ đã được giới thiệu bài thơ High Flight khi một số đài truyền hình kết thúc (và cũng đôi khi bắt đầu) chương trình trong ngày bằng những phim ngắn dựa trên bài thơ này. Đài truyền hình KCRA ở Sacramento, California thỉnh thoảng sử dụng phim kết thúc buổi phát hình thể hiện lời đọc bài thơ này ở đoạn phim Không quân Hoa Kỳ.

Các ví dụ khác về việc sử dụng bài thơ High Flight trong phim và chương trình truyền hình, trong đó có: *Loạt truyện tranh hài được ưa chuộng Bloom County, phát hành ngày 8.7.1984 đã sử dụng bài thơ này để làm sáng tỏ những thất vọng bị ràng buộc với Trái Đất của Opus, một con chim lội nước không bay được.

  • Một tập trong loạt phim tài liệu khảo cổ Time Team của Anh mô tả việc khai quật một máy bay Spitfire bị rơi ở Pháp, có tên bài thơ này ở cuối danh mục người và tài liệu dùng làm phim.
  • Tập áp chót "Daybreak" của loạt phim truyền hình Mỹ Battlestar Galactica, có diễn giải bài thơ này.
  • Trong phim For the Moment năm 1993, có cảnh nhân vật Lachlan Curry (do Russell Crowe đóng), đọc bài thơ này.
  • Phim khoa học giả tưởng Slipstream năm 1989, thường sử dụng bài thơ này, nhất là 2 diễn viên Mark Hamill (vai Will Tasker) và Bob Peck (vai Byron).
  • Trong phim The Snow Walker, diễn viên James Cromwell (đóng vai Walter "Shep" Shepherd) có đọc bài thơ này.
  • Bìa đĩa hát thứ hai Flight Inspired Music của phi công kiêm nhà soạn nhạc Max Conrad có in bài thơ này.
  • Quyển Return With Honor của Scott O'Grady có in bản sao đầy đủ bài thơ này.

Bài thơ Per Ardua

Một thời gian ngắn sau hoạt động bay chiến đấu đầu tiên ngày 08.11.1941, Magee đã gửi về gia đình một phần bài thơ khác, nói rằng đó là "một món đồ lặt vặt mà có thể cha mẹ quan tâm". Bài thơ Per Ardua có lẽ là bài thơ cuối cùng mà Magee đã viết. Có một số sửa chữa trong bài thơ, do Magee làm, cho thấy là bài thơ này có lẽ đã chưa hoàn thành khi chàng gửi nó. Per ardua ad astra ("Through adversity to the stars") là phương châm của một số Lực lượng Không quân trong Khối Thịnh vượng chung, chẳng hạn như Không quân Hoàng gia Anh, Không lực Hoàng gia Úc, Không lực Hoàng gia New Zealand và Không lực Hoàng gia Canada. Bài thơ này được sử dụng lần đầu vào năm 1912 bởi Royal Flying Corps (Đoàn bay Hoàng gia) mới được thành lập.

Tham khảo và Chú thích

;Sách

  • The Complete Works of John Magee, The Pilot Poet, including a short biography by Stephen Garnett. Cheltenham, Gloucestershire: This England Books, March 1989.
  • Icarus: An anthology of the poetry of flight. Macmillan, London, 1938.
  • Sunward I've Climbed. Hermann Hagedorn, The Macmillan Company, New York, 1942.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**John Gillespie Magee, Jr.** (9.6.1922 – 11.12.1941) đã bị tử nạn do va chạm máy báy trên không phận Lincolnshire, Anh trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã phục vụ trong Không