✨I Will Love Again

I Will Love Again

"I Will Love Again" (tạm dịch: "Em sẽ yêu trở lại") là một bài hát của nữ ca sĩ người Bỉ-Canada Lara Fabian. Bài hát được phát hành thành đĩa đơn chính thức thứ hai, cũng như thành đĩa đơn đầu tiên tại Hoa Kỳ từ album Lara Fabian vào ngày 28 tháng 3 năm 2000. Ca khúc do Paul Barry và Mark Taylor sáng tác, đồng thời được chính Taylor và Brian Rawling đồng sản xuất. Fabian cũng thu âm thêm một phiên bản tiếng Tây Ban Nha cho bài hát, lấy tựa đề mới là "Otro Amor Vendrá" (tạm dịch: "Một tình yêu khác sẽ đến") và phát hành ca khúc thành đĩa đơn tại Tây Ban Nha vào tháng 3 năm 2000. "I Will Love Again" là đĩa đơn tiếng Anh thành công nhất của Fabian trên thị trường Hoa Kỳ khi đạt đến vị trí thứ 32 trên Billboard Hot 100 và giành được vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Hot Dance Club Songs của Billboard. Ngoài ra, bài hát cũng đạt được vị trí trong top 10 trên các bảng xếp hạng của khu vực Wallonie và New Zealand, còn ca khúc "Otro Amor Vendrá" trở thành đĩa đơn duy nhất của Fabian lọt vào top 10 tại Tây Ban Nha.

Sáng tác và sản xuất

"I Will Love Again" được đồng sáng tác bởi Paul Barry và Mark Taylor. "I Will Love Again" là một bản nhạc dance "vui vẻ và ồn ào", được viết ở giọng Đô trưởng và sử dụng nhịp . Phần nhạc và phần hát của "I Will Love Again" được thu âm ở hai địa điểm khác nhau. Phần nhạc của bài hát được thu âm tại phòng thu Dreamhouse Studios ở Luân Đôn, Anh Quốc, còn những đoạn hát lại được Glen Marchese thu âm riêng tại phòng thu The Hit Factory ở New York, Hoa Kỳ. Ngoài phần hát chính của Fabian, ca khúc còn có thêm những đoạn hát đệm do nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Anh Tracy Ackerman thể hiện. Mặc dù nhân vật trong bài vừa mới trải qua cảm giác đau đớn sau khi chia tay người yêu, song ca khúc lại mang sắc thái "hân hoan" và "náo động", chứ không hề tỏ ra "kịch tính" hay đầy xúc động. Fabian cho rằng đây là một "điều ngược đời" và nhận thấy điều này làm tăng thêm sự sâu sắc cho bài hát. người thắng giải thưởng sáng tác nhạc Latinh năm 1998 của ASCAP, đã thực hiện chuyển soạn phần lời và nhạc từ bản tiếng Anh của Barry và Taylor sang tiếng Tây Ban Nha cho bài hát.

Các bản phối lại và bản ballad

Có tất cả bốn bản phối khác nhau của "I Will Love Again". Bản phối đầu tiên chính là bản phối gốc của Mark Taylor, còn ba bản phối còn lại gồm bản phối của bộ đôi nhà sản xuất nhạc dance Thunderpuss, bản phối của nhà sản xuất người Mỹ Hex Hector và bản phối của DJ David Morales. Fabian cho biết cô muốn phát hành nhiều bản phối của bài hát để gây ấn tượng bằng những âm thanh khác biệt so với dòng nhạc ballad sở trường của mình. Thành viên Barry Harris của Thunderpuss khẳng định rằng mặc dù bộ đôi đã từ chối nhiều bài hát trong khoảng thời gian đó, song họ lại có cảm tình với "I Will Love Again" ngay từ lúc mới nghe ca khúc và muốn phối khí lại bài hát để lôi cuốn khán giả đến với Fabian. Khi Thunderpuss và Fabian gặp nhau sau buổi tiệc phát hành album Lara Fabian tại Los Angeles, cô chia sẻ với bộ đôi rằng cô "hoàn toàn yêu thích" bản phối của họ. Vào tháng 5 năm 2000, bản phối của Thunderpuss trở nên vô cùng phổ biến tại các câu lạc bộ đêm ở Hoa Kỳ, và nhờ đó đã giúp "I Will Love Again" dần dần vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng Dance Club Songs của Billboard.

Cũng trong khoảng thời gian trước khi phát hành đĩa đơn maxi tại Hoa Kỳ, ông Tommy Mottola, chủ tịch kiêm CEO của Sony Music Entertainment lúc bấy giờ, đã đề nghị Hex Hector thực hiện một bản phối mới của "I Will Love Again", sao cho ca khúc nghe "góc cạnh hơn" và "bớt giống những tiết mục trên sân khấu Broadway".

Bên cạnh việc phát hành những bản phối lại, Fabian cũng thu âm thêm hai phiên bản theo phong cách ballad của "I Will Love Again" và "Otro Amor Vendrá". Tất cả các bản phối lại và bản ballad của "I Will Love Again" và "Otro Amor Vendrá" đều được Bob Ludwig thực hiện master tại phòng thu Gateway Mastering Studios ở Portland, Oregon, Hoa Kỳ. Đến cuối tháng 3, tạp chí Billboard cho biết bài hát được các câu lạc bộ đón nhận tích cực và có khả năng sẽ trở thành một bản hit trên bảng xếp hạng Dance Club Songs. Bài hát sau đó đã lọt vào các bảng xếp hạng Rhythmic Top 10 của WKTU, Mainstream Top 40 của đài WBLI, Adult Top 40 của đài KBIG, và nhận được những phản hồi tích cực từ đài WNND của Chicago. Sony tiếp tục gửi video âm nhạc của "I Will Love Again" đến các kênh truyền hình âm nhạc trên khắp Hoa Kỳ. The Box và VH1 là hai kênh truyền hình đầu tiên tổ chức phát sóng rộng rãi video của bài hát ngay trong tuần đầu tiên của tháng 6. Sau khoảng ba tuần, video của bài hát phủ sóng tới College Television Network, một mạng truyền hình âm nhạc dành cho sinh viên của 238 trường đại học trên toàn quốc. Trong khoảng thời gian từ đầu tháng 6 đến giữa tháng 8 năm 2000, video âm nhạc của "I Will Love Again" liên tục nằm trong top 50 video được phát nhiều nhất của tuần trên VH1.

Biểu diễn trực tiếp

Để quảng bá cho "I Will Love Again", Fabian đã biểu diễn trực tiếp bài hát trong nhiều chương trình truyền hình và sự kiện đặc biệt. Tại Pháp, nữ ca sĩ đã biểu diễn ca khúc trong chương trình âm nhạc Hit Machine trên kênh M6 vào ngày 1 tháng 4 năm 2000. Tại Hoa Kỳ, Fabian trình diễn trực tiếp "I Will Love Again" lần đầu tiên trong chương trình The Today Show trên kênh NBC vào ngày 30 tháng 5 năm 2000. Sau đó, cô tiếp tục biểu diễn bài hát trong talk show The View trên kênh ABC vào ngày 1 tháng 6, Hai màn biểu diễn sau đó được phát sóng trên truyền hình Canada vào tháng 12 năm 2000, và trên các kênh thành viên của mạng truyền hình PBS tại Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 2001. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2001, Fabian biểu diễn "I Will Love Again" trong đêm chung kết của cuộc thi sắc đẹp Miss USA 2001. Bên cạnh việc biểu diễn trong các chương trình và sự kiện, nữ ca sĩ cũng trình diễn ca khúc trong suốt chuyến lưu diễn quảng bá cho album Lara Fabian vào năm 2000.

Ảnh hưởng đến việc xây dựng hình ảnh

Tại Hoa Kỳ, mặc dù việc phát hành một bài hát nhạc dance thành đĩa đơn mở đường cho album là chiến lược quảng bá được các hãng thu âm ưa chuộng vào thời điểm đó, song trong bài phỏng vấn với Radio-Canada vào năm 2015, Fabian cho rằng chiến lược này đã dẫn đến thất bại của album Lara Fabian trên thị trường này. Nữ ca sĩ khẳng định rằng "I Will Love Again" không phản ánh đúng bản chất nghệ thuật của cô, và việc bài hát trở thành đĩa đơn mở đường cho album đã khiến công chúng tại Mỹ có những phản ứng "kỳ quặc" khi cô biểu diễn những bài hát ballad khác trên truyền hình. Trong bộ phim tài liệu Lara (2020), Fabian cũng cho rằng việc quảng bá cùng lúc "I Will Love Again" và "Adagio" đã gây ra sự thiếu nhất quán trong hình ảnh của cô tại Hoa Kỳ, khiến cho khán giả "chẳng còn biết tôi là ai".

Tiếp nhận phê bình

Ở thời điểm phát hành, "I Will Love Again" cùng các bản phối đều nhận được những phản hồi tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Trong bài đánh giá album Lara Fabian, biên tập viên Michael Paoletta của tạp chí Billboard nhận xét ca khúc là một trong số những điểm nhấn của album. Cũng viết cho tạp chí Billboard, Chuck Taylor khen ngợi cách thể hiện bài hát của Fabian là "tuyệt vời" và "bao trùm toàn bộ không gian". Ông nhận thấy nữ ca sĩ đã kiềm chế cảm xúc của mình để nhường chỗ cho những nhịp trống và tiếng chop tràn đầy năng lượng của nhạc house. Vào năm 2014, trang Idolator xếp "I Will Love Again" ở vị trí thứ 7 trong danh sách 10 ca khúc one-hit wonder thuộc thể loại eurodance xuất sắc nhất của thập niên 2000.

Diễn biến thương mại

Tại châu Âu, ở khu vực Wallonie của Bỉ, "I Will Love Again" ra mắt ở vị trí thứ 22 trên bảng xếp hạng Ultratop 50 trong tuần ngày 1 tháng 4 năm 2000. Sau ba tuần, ca khúc vươn lên vị trí thứ 7 và trở thành đĩa đơn thứ năm của Fabian lọt vào top 10 trên thị trường quê nhà. Ca khúc đạt đến vị trí thứ 5 trong tuần kế tiếp và tiếp tục hiện diện trên bảng xếp hạng cho đến tuần ngày 1 tháng 7. và hiện diện trên bảng xếp hạng trong tổng cộng 11 tuần không liên tiếp. Trong tuần ngày 29 tháng 4, đĩa đơn chính thức của "I Will Love Again" ra mắt ở vị trí thứ 40 trên bảng xếp hạng Dance Maxi-Singles Sales. Đây là bảng xếp hạng liệt kê những đĩa đơn maxi nhạc dance bán chạy nhất tại các cửa hàng bán lẻ, các đơn vị cung cấp với số lượng lớn và trên các trang tải nhạc trực tuyến của Hoa Kỳ, sử dụng số liệu do Nielsen SoundScan tổng hợp và sắp xếp. Ngoài ra, ca khúc cũng tiếp tục vươn lên vị trí thứ 13 trên Dance Club Play. Nhờ hiệu ứng từ sự phổ biến của các bản phối lại, đặc biệt là nhờ bản phối của Thunderpuss, đĩa đơn nhanh chóng leo thẳng vào top 3 trên Dance Club Play và top 10 trên Dance Maxi-Singles Sales, và cuối cùng đã giành được vị trí quán quân trên Dance Club Play trong tuần ngày 27 tháng 5 năm 2000. Đĩa đơn hiện diện trên bảng xếp hạng Dance Club Play trong tổng cộng 13 tuần, "I Will Love Again" sau đó cũng đạt được vị trí á quân trên Dance Maxi-Singles Sales vào tháng 7 năm 2000 và trải qua 60 tuần trên bảng xếp hạng.

"I Will Love Again" (phiên bản album) – 3:47

"I Will Love Again" (bản phối của David Morales cho các câu lạc bộ) – 8:00

"I Will Love Again" (bản phối chính của Hex Hector) – 11:00

"I Will Love Again" (bản phối của Thunderpuss cho các câu lạc bộ) – 10:34

  • Đĩa đơn 12 inch maxi tại Hoa Kỳ năm 2000, nhãn hiệu Columbia, mã 44 79375 ** Mặt A

    "I Will Love Again" (bản phối của David Morales cho các câu lạc bộ) – 8:02

    "I Will Love Again" (bản phối của Thunderpuss cho các câu lạc bộ) – 10:34

    ** Mặt B

    "I Will Love Again" (bản phối được chỉnh thêm của David Morales) – 7:12

    "I Will Love Again" (bản phối chính của Hex Hector) – 11:03

  • Đĩa đơn 12 inch tại Hà Lan năm 1999, nhãn hiệu Epic, mã EPC 668564-8

    "I Will Love Again" (phiên bản ballad) – 4:54 (mặt A)

    "I Will Love Again" (bản phối lại của David Morales cho các đài phát thanh) – 3:52 (mặt B)

  • Đĩa đơn 12 inch maxi tại Pháp năm 2000, nhãn hiệu Epic, mã EPC 668564 6 ** Mặt A

    "I Will Love Again" (bản phối của Thunderpuss cho các buổi diễn mix) – 8:17

    "I Will Love Again" (bản phối của Hex Hector cho các đài phát thanh) – 3:30

    ** Mặt B

    "I Will Love Again" (bản phối lại của David Morales cho các đài phát thanh) – 3:52

    "I Will Love Again" (bản phối được chỉnh thêm của Thunderpuss) – 7:59

  • Đĩa đơn CD phiên bản nâng cao tại Anh Quốc năm 2000, nhãn hiệu Columbia, mã 669406 2

    "I Will Love Again" – 3:43

    "I Will Love Again" (bản phối lại của David Morales cho các đài phát thanh) – 3:52

    "I Will Love Again" (phiên bản ballad) – 4:54

    Video âm nhạc của "I Will Love Again"

  • Đĩa đơn CD tại châu Âu năm 2000, nhãn hiệu Epic, mã EPC 668564 7

    "I Will Love Again" – 3:47

    "You Are My Heart" – 4:11

  • Đĩa đơn CD maxi phiên bản bìa bọc cardboard tại Pháp năm 2000, nhãn hiệu Epic, mã EPC 668564 5

    "I Will Love Again" – 3:47

    "I Will Love Again" (phiên bản ballad) – 4:54

    "You Are My Heart" – 4:11

  • Đĩa đơn CD maxi tại châu Âu năm 2000, nhãn hiệu Epic, mã EPC 668564 4

    "I Will Love Again" (bản phối của David Morales cho các đài phát thanh) – 3:52

    "I Will Love Again" (bản phối được chỉnh thêm của Thunderpuss) – 7:59

    "I Will Love Again" (bản phối lại được chỉnh thêm của HQ2) – 7:38

    "I Will Love Again" (bản phối của Thunderpuss cho các buổi diễn mix) – 8:17

    "I Will Love Again" (bản phối của David Morales cho các câu lạc bộ) – 8:02

    "I Will Love Again" (bản phối của Thunderpuss cho các câu lạc bộ) – 10:34

    "I Will Love Again" (bản phối chính của Hex Hector cho đĩa 12 inch) – 11:03

    "I Will Love Again" (bản phối acapella của Hex Hector cho đĩa 7 inch) – 3:16

  • Đĩa đơn CD phiên bản nâng cao tại Úc năm 2000, nhãn hiệu Columbia, mã 669324.2

    "I Will Love Again" (phiên bản album) – 3:43

    "I Will Love Again" (bản phối có lời hát của Hex Hector cho đĩa 7 inch) – 3:30

    "I Will Love Again" (bản phối của David Morales cho các đài phát thanh) – 3:45

    "I Will Love Again" (bản phối của Thunderpuss cho các đài phát thanh) – 3:43

    Video âm nhạc của "I Will Love Again" – 3:43

  • Đĩa đơn CD maxi tại Tây Ban Nha năm 2000, nhãn hiệu Epic, mã EPC 669066 2

    "Otro Amor Vendrá (I Will Love Again)" – 3:44

    "I Will Love Again" – 3:47

    "Otro Amor Vendrá (I Will Love Again)" (phiên bản ballad) – 4:54

    "You Are My Heart" – 4:11

Những người thực hiện

Thông tin lấy từ ghi chú trên bìa đĩa đơn maxi tại Hoa Kỳ, bìa đĩa đơn tại Tây Ban Nha, bìa phiên bản nâng cao tại Anh Quốc và bìa album Lara Fabian tại Nhật Bản.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
"**I Will Love Again**" (tạm dịch: "Em sẽ yêu trở lại") là một bài hát của nữ ca sĩ người Bỉ-Canada Lara Fabian. Bài hát được phát hành thành đĩa đơn chính thức thứ hai,
"**Love by Grace**" là một bài hát của nữ ca sĩ người Bỉ-Canada Lara Fabian. Bài hát là đĩa đơn thứ tư trích từ album _Lara Fabian_ (1999). Bản ballad này là một hit lớn
Mùa thi thứ tư của loạt chương trình **_American Idol_** chính thức ra mắt ngày 18 tháng 1 và kết thúc ngày 25 tháng 5, 2005. Thành phần hội đồng giám khảo vẫn giống các
**_Lara Fabian_** là album phòng thu thứ tư và cũng là album tiếng Anh đầu tiên của nữ nghệ sĩ thu âm người Bỉ-Canada Lara Fabian. Album được phát hành lần đầu vào ngày 24
**Lara Fabian**, tên thật là **Lara Sophie Katy Crokaert** (sinh ngày 9 tháng 1 năm 1970), là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Bỉ-Canada. Cô sinh ra ở Etterbeek, Bruxelles và có
**_...Baby One More Time_** là album phòng thu đầu tay của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 12 tháng 1 năm 1999 bởi Jive Records. Spears từng là nghệ sĩ biểu diễn
**Kim So-hyang** (Hangul: 김소향; Hanja: 金昭享; Hán-Việt: Kim Chiêu Hưởng; sinh ngày 5 tháng 4 năm 1978 tại Jeollanam-do, Gwangju, Hàn Quốc), là một nữ ca sĩ người Hàn Quốc. Với quãng giọng rộng và
**_Femme Fatale_** là album phòng thu thứ bảy của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 25 tháng 3 năm 2011 bởi Jive Records. Đây là album cuối cùng của cô hợp tác
**Jin I-han** (còn được viết là **Jin Yi-han** hay **Jin Lee-han**, Hàn tự: 진이한, Hán tự: 眞理翰, Hán-Việt: Chân Lý Hàn), tên thật là **Kim Hyeon-joong** (Hàn tự: 김현중, Hán tự: 金鉉中, Hán-Việt: Kim Huyễn
**Giải Oscar cho ca khúc gốc trong phim xuất sắc nhất** là một trong số những giải Oscar được Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh trao tặng hàng năm cho những
**Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất** là một trong các giải Quả cầu vàng được Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood trao hàng năm cho ca khúc trong
**Giải Grammy lần thứ 52** diễn ra ngày 31 tháng 1 năm 2010 tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, California, Mỹ. Chỉ 10 trong số 109 hạng mục của giải được phát sóng trên
**Britney Jean Spears** (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1981) là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ, vũ công và diễn viên người Mỹ được mệnh danh là "công chúa nhạc pop". Cô chính là
**Giải Grammy lần thứ 51** đã diễn ra tại Trung tâm Staples ở Los Angeles vào 8 tháng 2 năm 2009. Robert Plant và Alison Krauss đã trở thành những người thắng giải nhiều nhất
Mùa thi đầu tiên của chuỗi chương trình **_American Idol_** lên sóng ngày 11 tháng 6, 2002 (với tên gọi ban đầu: **_American Idol: The Search for a Superstar_**, tạm dịch: _Thần tượng âm nhạc
**European Hot 100 Singles** được biên soạn bởi _Billboard_ và tạp chí _Music & Media_ từ tháng 3 năm 1984. Bảng xếp hạng dựa trên các bảng xếp hạng doanh số đĩa đơn quốc gia
**Giải Grammy lần thứ 53** được tổ chức vào ngày 13 tháng 2 năm 2011 tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, được truyền hình bởi kênh CBS. Barbra Streisand được vinh danh là nghệ
**T-ara** hay **Tiara** (phát âm: ; ) là một nhóm nhạc nữ thần tượng của Hàn Quốc ra mắt vào ngày 29 tháng 7 năm 2009 bởi Core Contents Media, nay là MBK Entertainment. Trước
**Violetta Villas** (; tên khai sinh là **Czesława Maria Cieślak**, 10.6.1938 – 5.12.2011) là một nữ ca sĩ, người viết bài hát, nhà soạn nhạc kiêm nữ diễn viên Ba Lan sinh tại Bỉ. Giọng
**Trung tâm Mây** hay **Mây Productions** là một trung tâm sản xuất và phát hành chương trình ca vũ nhạc kịch tổng hợp (đại nhạc hội) nổi tiếng ở Hoa Kỳ thập niên 1990. Sản
**Elvis Aaron Presley** (8 tháng 1 năm 1935 – 16 tháng 8 năm 1977), hay còn được gọi đơn giản là **Elvis**, là nam ca sĩ, diễn viên người Mỹ. Ông được coi là một trong
**Britney: Piece of Me** là chương trình biểu diễn cư trú đầu tiên của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, tại khán phòng The AXIS thuộc khu nghỉ dưỡng và sòng bài Planet Hollywood Resort
là Công ty phân phối phim và sản xuất sân khấu Nhật Bản. Trung tâm của nó nằm ở Yūrakuchō, Chiyoda, Tokyo, và một trong những công ty chủ chốt của Hankyu Hanshin Toho Group.
**Katharine Hope McPhee** (sinh ngày 25/3/1984) là ca sĩ, diễn viên và nhà viết nhạc người Mỹ. Vào tháng 5 năm 2006, cô là á quân của cuộc thi American Idol mùa thứ 5. Album
LISA KLEYPAS sinh năm:1964 tại Texas, Mỹ. Bút danh:LISA KLEYPAS. Nghề nghiệp: nhà văn viết tiểu thuyết. Quốc tịch:MỸ Giai đoạn:1987 đến nay Các thể loại: tình cảm lịch sử. Tình cảm đương đại. **Lisa
upright|thumb|[[Westlife có 11 đĩa đơn quán quân từ năm 2000 đến 2009, bao gồm một bản cover "Against All Odds" của Phil Collins, mà ban nhạc đã phát hành bản song ca với Mariah Carey
**_Dreaming of You_** là album phòng thu thứ năm và cũng là cuối cùng của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Selena, phát hành ngày 18 tháng 7 năm 1995 bởi EMI Latin và EMI
**_Ngài_** **James Paul McCartney** (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1942) là một nam ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất phim và thu âm người Anh, đồng giọng ca chính, đồng sáng tác và
**Modern Talking** là một bộ đôi ca sĩ người Đức bao gồm Thomas Anders và Dieter Bohlen. Họ thường được nhắc tới và đề cập đến như bộ đôi ca nhạc sĩ thành công nhất
**Nhạc pop** (viết tắt của cụm từ tiếng Anh: **_pop**ular music_, tiếng Việt: _nhạc đại chúng_) là một thể loại của nhạc đương đại và rất phổ biến trong làng nhạc đại chúng. Nhạc pop
**_Irresistible_** là album phòng thu thứ hai của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Jessica Simpson, do hãng đĩa Columbia Records phát hành vào ngày 25 tháng 5 năm 2001. Jessica bắt đầu thực hiện
**Bài hát trứ danh** (tiếng Anh: _Signature song_) là một (hoặc nhiều) bài hát nổi danh được biết đến nhiều nhất hay được dễ dàng nhận dạng bởi một nghệ sĩ thu âm hoặc ban
**Adriano Celentano** (; sinh 6 tháng 1 năm 1938) là một ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất, diễn viên hài, diễn viên điện ảnh, đạo diễn phim và người dẫn chương trình người Ý.
**_#20_** là một album Cantopop của Lương Hán Văn. Nó được đặt tên như vậy vì đây là album phòng thu thứ 20 của anh (không kể đến các album tổng hợp và album hòa
**_MTV Unplugged_** là chuỗi chương trình truyền hình được thực hiện bởi các nghệ sĩ nổi tiếng trình bày hoàn toàn bằng các nhạc cụ mộc. Đây là một chuỗi chương trình thành công, từng
Joji là một ca sĩ và nhạc sĩ người Nhật đã phát hành ba album phòng thu, một mixtape, hai đĩa mở rộng và mười bốn đĩa đơn, với ba trong số những dự án
"**Anytime You Need a Friend**" là bài hát của nữ ca sĩ-nhà soạn nhạc người Mỹ Mariah Carey. Bài hát được viết và sản xuất bởi Carey và Walter Afanasieff cho album phòng thu thứ
**_Born This Way_** là album phòng thu thứ hai của nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Lady Gaga. Album đã được hãng thu âm Interscope Records ra mắt trên toàn thế giới vào ngày 23
Lễ trao giải thưởng **Video âm nhạc của MTV** (**_MTV Video Music Awards_** hay **_VMAs_**) được tổ chức lần đầu vào cuối mùa hè năm 1984 để tôn vinh những video âm nhạc trong năm.
**La trưởng** là một cung thể trưởng dựa trên nốt La (A), bao gồm các nốt sau **La**, Si, **Đô♯**, Rê, **Mi**, Fa♯, Sol♯ và **La**. Bộ khóa của nó có 3 dấu thăng. Âm
"**Old Town Road**" là một bài hát của ca sĩ nhạc rap người Mỹ Lil Nas X. Ca khúc vốn được phát hành độc lập vào ngày 3 tháng 12 năm 2018 và sau đó
**Giải Grammy lần thứ** **49** là một giải thưởng âm nhạc danh giá nhằm tôn vinh các cá nhân thu âm xuất sắc bắt đầu từ 15 tháng 9 năm 2005 và kết thúc vào
**_M Countdown_** () là một chương trình truyền hình âm nhạc Hàn Quốc do Mnet phát sóng trực tiếp vào lúc 18:00 KST mỗi Thứ Năm hàng tuần. Chương trình có sự tham gia biểu
**Janet Damita Jo Jackson** (sinh ngày 16 tháng 5 năm 1966) là một nữ ca sĩ, người viết lời bài hát, vũ công và diễn viên người Mỹ. Được biết đến với một loạt các
**Park Jae-beom** (Hangul: 박재범, sinh ngày 25 tháng 4 năm 1987, thường được biết tới dưới nghệ danh **Jay Park**) là một nam rapper, ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất, vũ công, biên đạo
**Giải Grammy lần thứ 64** được tổ chức tại sân vận động MGM Grand Garden Arena (Las Vegas) vào ngày 3 tháng 4 năm 2022. Giải thưởng này ghi nhận những bản thu âm, sáng
**_Good Girl Gone Bad: Reloaded_** là phiên bản tái phát hành của album phòng thu thứ ba của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna mang tên _Good Girl Gone Bad_ (2007). Album được phát hành
**Lee Ho-yang** (, 3 tháng 6 năm 1983 23 tháng 2 năm 2024), còn được biết đến với nghệ danh là **Shinsadong Tiger** ( _Shinsadong Horaengi_ Ông đã trở thành một nhân vật nổi bật
**Miley Ray Cyrus** (tên khai sinh: **Destiny Hope Cyrus**; sinh ngày 23 tháng 11 năm 1992) là một ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, diễn viên, nhà từ thiện người Mỹ. Sau khi tham gia
**Giải Grammy lần thứ 63** đã được tổ chức vào ngày 14 tháng 3 năm 2021 tại Trung tâm Staples, Los Angeles. Giải thưởng này ghi nhận những bản thu âm, sáng tác và những