✨HMS Essington (K353)
HMS Essington (K353) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-67 (chưa đặt tên), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Anh được đặt cái tên này, tên nó được đặt theo Phó đô đốc Sir William Essington (1753-1816), hạm trưởng chiếc và đã từng tham gia các cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoleon. Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1945.
Thiết kế và chế tạo
Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo /50 cal.
Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước và chiều dài chung ; mạn tàu rộng và độ sâu mớn nước khi đầy tải là . Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn ; và lên đến khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất , dẫn động hai máy phát điện công suất để vận hành hai trục chân vịt; công suất cho phép đạt được tốc độ tối đa . Con tàu mang theo dầu đốt, cho phép di chuyển đến ở vận tốc đường trường .
Vũ khí trang bị bao gồm pháo /50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 . Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.
Essington được đặt lườn như là chiếc DE-67 (chưa đặt tên) tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel Shipyard ở Hingham, Massachusetts vào ngày 15 tháng 3, 1943 và được hạ thủy vào ngày 19 tháng 6, 1943. Essington cùng Đội hộ tống 3 quay trở về Belfast vào ngày 6 tháng 7. Đội hộ tống 3 quay trở về Belfast vào ngày 22 tháng 8.
Cùng với Đội hộ tống 3, Essington được bố trí tuần tra chống tàu ngầm tại Khu vực tiếp cận phía Tây từ ngày 1 đến ngày 21 tháng 9 trước khi quay trở lại Belfast. Sang tháng 10, Đội hộ tống 3 được điều sang hoạt động tạm thời cùng Hạm đội Nhà để bảo vệ các Đoàn tàu vận tài Bắc Cực hướng sang Liên Xô; vì vậy con tàu di chuyển từ Belfast đến Loch Ewe, Scotland vào ngày 18 tháng 10 cho nhiệm vụ này, và từ ngày 19 đến ngày 27 tháng 10 đã bảo vệ cho các đoàn tàu JW 61 và JW 61A băng qua Bắc Đại Tây Dương và biển Barents, đi đến Polyarnye, Murmansk vào ngày 28 tháng 10. Đến ngày 30 tháng 10, trước khi Đoàn tàu RA 61 xuất phát khỏi bán đảo Kola, nó rời Polyarnye để tấn công tàu ngầm U-boat Đức đang tập trung tìm cánh ngăn chặn đoàn tàu, rồi sang đầu tháng 11 đã cùng Đội hộ tống 3 bảo vệ cho Đoàn tàu RA 61 trước khi quay trở lại Murmansk vào ngày 3 tháng 11. Đội hộ tống 3 rời Murmansk vào ngày 9 tháng 11, và quay trở lại Belfast vào ngày 16 tháng 11.
Sang tháng 12, Essington được bố trí cùng Đội hộ tống 3 trong nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm tại vùng biển Ireland, tuy nhiên nó gặp sự cố hỏa hoạn bảng điều khiển điện nên phải quay trở về Belfast để sửa chữa. Nó quay trở lại hoạt động tại khu vực biển Ireland vào tháng 1, 1945, tham gia hoạt động ngăn chặn kiểu tàu ngầm U-boat mới trang bị ống hơi tại khu vực eo biển St. George's. Sau một giai đoạn bảo trì tại Belfast, nó tiếp tục nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm tại Khu vực tiếp cận Tây Nam và eo biển Manche cho đến tháng 5, khi chiến tranh chấm dứt tại châu Âu.
Trong tháng 5, Hải quân Anh dự định phái Essington sang phục vụ cùng Hạm đội Thái Bình Dương Anh Quốc, nên con tàu đi vào xưởng tàu vào tháng 6 để được tái trang bị, đặc biệt là bổ sung thiết bị thông tin liên lạc. Tuy nhiên do Nhật Bản đã chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8 giúp kết thúc cuộc xung đột, kế hoạch tái trang bị và bố trí bị hủy bỏ và con tàu quay trở lại Belfast.
Essington khởi hành quay trở về Hoa Kỳ vào tháng 10, và cùng với tàu chị em được hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 10, 1945, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Do không có nhu cầu về tàu chiến khi chiến tranh đã chấm dứt, Hải quân Hoa Kỳ cho rút tên Essington khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 5 tháng 12, 1945, và con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 22 tháng 12, 1945.