✨HMS Beaufort (L14)
HMS Beaufort (L14) là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1941. Nó đã hoạt động cho đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai, đưa về lực lượng dự bị năm 1945, rồi được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Na Uy năm 1952 và tiếp tục hoạt động như là chiếc KNM Haugesund (F312) cho đến năm 1965, khi nó bị tháo dỡ.
Thiết kế và chế tạo
Beaufort thuộc vào số 33 chiếc tàu khu trục lớp Hunt nhóm II, có mạn tàu rộng hơn nhóm I, tạo độ ổn định cho một tháp pháo QF Mark XVI nòng đôi thứ ba, cũng như cho phép tăng số lượng mìn sâu mang theo từ 40 lên 110.
Beaufort được đặt hàng vào ngày 4 tháng 12 năm 1939 cho hãng Cammell Laird tại Birkenhead trong Chương trình Chế tạo Khẩn cấp Chiến tranh 1939 và được đặt lườn vào ngày 17 tháng 7 năm 1940. Nó được hạ thủy vào ngày 9 tháng 6 năm 1941 và hoàn tất vào ngày 3 tháng 11 năm 1941. Tên nó được đặt theo tên một rừng săn cáo tại Badminton, Gloucestershire. Con tàu được cộng đồng dân cư Bathavon tại Somerset đỡ đầu trong khuôn khổ cuộc vận động gây quỹ Tuần lễ Tàu chiến vào tháng 3 năm 1942.
Lịch sử hoạt động
1941
Sau khi hoàn tất chạy thử máy, Beaufort chuyển đến Scapa Flow và được điều động gia nhập Chi hạm đội Khu trục 5 đặt căn cứ tại Alexandria, Ai Cập. Nó cùng thiết giáp hạm và tàu khu trục gia nhập để hộ tống Đoàn tàu WS14 đi Freetown, đến nơi vào ngày 21 tháng 12, rồi tiếp tục cùng Ramillies, và hộ tống Đoàn tàu WS14 tiếp tục hướng đến mũi Hảo Vọng. Sau khi đi đến Capetown, Nam Phi vào ngày 4 tháng 1 năm 1942, chiếc tàu khu trục tách khỏi Đoàn tàu WS14 và di chuyển độc lập theo ngã Hồng Hải và kênh đào Suez để gia nhập Hạm đội Địa Trung Hải tại Alexandria.
1942
Vào ngày 12 tháng 2 năm 1942, Beaufort được bố trí cùng tàu tuần dương hạng nhẹ và các tàu khu trục , , , , Hurworth và để hộ tống cho Đoàn tàu MW9 bao gồm ba tàu buôn nhằm tăng viện cho Malta. Đoàn tàu bị đối phương không kích nặng nề, khiến một tàu buôn bị hư hại phải rút lui về Tobruk vào ngày 13 tháng 2, rồi thêm một tàu buôn khác bị đánh chìm vào ngày hôm sau. Lực lượng hộ tống quay mũi rút lui về Ai Cập cùng bốn tàu buôn rỗng xuất phát từ Malta; Đoàn tàu MW9 xem như thất bại khi chiếc tàu buôn cuối cùng cũng không đến được Malta.
Vào ngày 20 tháng 3, Beaufort được bố trí cùng Carlisle, Southwold, Dulverton, Eridge, Hurworth, Avon Vale và Heythrop để hộ tống cho Đoàn tàu MW10 đi Malta, dưới sự bảo vệ của các tàu tuần dương , và . Lực lượng đã đụng độ với không quân đối phương và với một hạm đội tàu nổi hùng hậu của Hải quân Ý trong khuôn khổ Trận Sirte thứ hai vào ngày 22 tháng 3; và tiếp tục chịu đựng không kích kéo dài của đối phương vào ngày hôm sau, khi một tàu buôn bị đánh chìm. Lực lượng rút lui về Alexandria sau đó, và nó tiếp nối nhiệm vụ hộ tống vận tải tiếp liệu và hỗ trợ cho lực lượng đồn trú tại Tobruk.
Vào ngày 11 tháng 6, Beaufort cùng tàu tuần dương hạng nhẹ và các tàu khu trục , , , Dulverton, Eridge, và Hurworth hộ tống cho bốn tàu buôn thuộc Đoàn tàu MW11C tham gia Chiến dịch Vigorous, một hoạt động nhằm tăng viện cho Malta xuất phát từ Port Said. Hoạt động này chỉ nhằm nghi binh đánh lạc hướng sự chú ý của đối phương khỏi Chiến dịch Harpoon tương tự xuất phát từ Gibraltar. Đoàn tàu bị đối phương không kích vào ngày hôm sau, khi tàu buôn bị hư hại và phải được Exmoor và Croome hộ tống rút lui về Tubruk. Trong những ngày tiếp theo, đoàn tàu tiếp tục chịu đựng các đợt không kích liên tục, cũng như mối đe dọa từ hạm tàu nổi của Hải quân Ý, khiến phải hủy bỏ chiến dịch và rút lui về Alexandria.
Vào tháng 10, Beaufort được cử hộ tống một đoàn tàu vận tải đi sang Ấn Độ Dương. Nó cùng tàu chị em gia nhập cùng tàu buôn tuần dương vũ trang HMS Ranchi trong thành phần Đoàn tàu WS22 vào ngày 14 tháng 10 cho hành trình đi Aden. Đến nơi hai ngày sau đó, nó cùng Tetcott tách khỏi đoàn tàu để quay trở về Alexandria.
Beaufort tách khỏi Chiến dịch Husky vào tháng 8, tiếp tục nhiệm vụ hộ tống vận tải, cho đến khi lại được huy động vào Chiến dịch Avalanche, cuộc đổ bộ tiếp theo của lực lượng Đồng Minh lên Salerno, Ý. Nó đi đến Tripoli vào ngày 6 tháng 9 để hộ tống cho Đoàn tàu TSF1 đi Salerno; và khi đi đến ngoài khơi bãi đổ bộ vào ngày 9 tháng 9, nó đã hỗ trợ cho cuộc đổ bộ, bắn hải pháo và tuần tra phòng thủ cho đến ngày 15 tháng 9.
Vào ngày 10 tháng 11, trên đường đi đến đảo Kos, Beaufort cùng Faulknor và Pindos chịu đựng không kích kéo dài của đối phương. Sau khi bắn phá cảng Kos vào ngày hôm sau, lực lượng ẩn náu trong vùng biển Thổ Nhĩ Kỳ, kéo dài sang ngày 12 tháng 11 do không quân đối phương khống chế bầu trời. Sang ngày 13 tháng 11, lực lượng lại bắn phá các vị trí đối phương trên núi Clidi tại Leros để hỗ trợ các đơn vị trên bộ trước khi rút lui về Alexandria một ngày sau đó. Lực lượng đối phương tiếp tục được tăng viện đến Leros, và mọi chiến dịch hải quân kết thúc khi lực lượng đồn trú trên đảo này đầu hàng vào ngày 16 tháng 11. Sang tháng 12, Beaufort cùng với Aldenham, Belvoir và tàu khu trục Hy Lạp Kanaris (L53) được điều sang khu vực Trung tâm Địa Trung Hải, đặt căn cứ tại Algiers để hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa các cảng Bắc Phi và Naples.
HNoMS Haugesund (F312)
Vào năm 1952, con tàu được bán cho Na Uy và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Na Uy như là chiếc HNoMS _Haugesund_ sau khi được tái trang bị tại Tyne. Đến năm 1954, nó được xếp lại lớp như một tàu frigate, mang ký hiệu lườn mới F312, và được cải biến với cột ăn-ten dạng lưới và bổ sung hai dàn súng cối chống tàu ngầm Squid thay cho tháp pháo X phía đuôi tàu. Nó bị tháo dỡ vào năm 1965.