✨HMAS Queenborough (G70)

HMAS Queenborough (G70)

HMAS Queenborough (G70/D270/F02/57), nguyên là chiếc HMS Queenborough (G70/D19), là một tàu khu trục lớp Q phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và sau đó cùng Hải quân Hoàng gia Australia. Được chế tạo vào giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai như một phần của Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh, nó được đặt lườn năm 1940 và hạ thủy năm 1942; phục vụ tại các mặt trận Bắc Cực, Địa Trung Hải, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Sau khi chiến tranh kết thúc, nó được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Australia mượn nhằm hoán đổi với một tàu khu trục lớp N, rồi được giao cho Australia như một quà tặng vào năm 1950.

Queenborough được cải biến thành một tàu frigate chống tàu ngầm và phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia cho đến năm 1966. Trong thời gian này, nó đã nhiều dịp được bố trí cùng Lực lượng Dự bị Chiến lược Viễn Đông, tham gia nhiều cuộc thực tập hạm đội cũng như một phần trong vai trò huấn luyện. Nó được cho xuất biên chế và đưa về lực lượng dự bị, nhưng lại tái hoạt động vào năm 1969 như một tàu huấn luyện. Nó phục vụ thêm ba năm nữa, cho đến khi một loạt các khiếm khuyết cơ khí và cấu trúc buộc nó phải nghỉ hưu, xuất biên chế năm 1972 và bị tháo dỡ tại Hong Kong vào năm 1975.

Thiết kế và chế tạo

Là chiếc tàu chiến thứ sáu của Hải quân Hoàng gia được đặt cái tên , theo tên thị trấn Queenborough tại Kent, Anh Quốc, Queenborough được đặt lườn bởi hãng Swan Hunter and Wigham Richardson ở Wallsend-on-Tyne vào ngày 6 tháng 11 năm 1940. Nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 1 năm 1942, nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia vào ngày 15 tháng 9 và hoàn tất vào ngày 10 tháng 12

Dàn vũ khí chính của Queenborough bao gồm bốn khẩu pháo QF Mark IX, gồm hai phía trước và hai phía sau cấu trúc thượng tầng. Nó được biên chế vào Chi hạm đội Khu trục 4, vốn hình thành từ các tàu khu trục lớp Q.

Vận tải Bắc Cực

Sau khi nhập biên chế, Queenborough được phân về Hạm đội Nhà Anh Quốc, và đã trải qua phần cuối năm 1942 và đầu năm 1943 làm nhiệm vụ hộ tống các Đoàn tàu Vận tải Bắc Cực. Nó được bố trí một thời gian ngắn đến vùng biển ngoài khơi Nam Phi trước khi Chi hạm đội Khu trục 4 được phối thuộc cùng Lực lượng H để hoạt động tại Địa Trung Hải vào giữa năm 1943. Chiếc tàu khu trục tham gia vào việc chuẩn bị cho việc đổ bộ lực lượng Anh lên Calabria từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 3 tháng 9, bao gồm việc bắn phá chuẩn bị lên bãi đổ bộ trong các ngày 31 tháng 8 và 2 tháng 9.

Hạm đội Đông

Chi hạm đội Khu trục 4 được lệnh rời chiến trường Địa Trung Hải và lên đường đi sang Ấn Độ Dương vào tháng 3 năm 1944 để gia nhập Hạm đội Đông. nó rời Trincomalee vào ngày 21 tháng 3 trong thành phần một lực lượng 18 tàu chiến, thực hành tiếp nhiên liệu ngoài khơi ở vị trí về phía Nam Ceylon. Trên đường quay trở về Trincomalee, nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 66 để tham gia Chiến dịch Transom, một cuộc không kích từ tàu sân bay xuống Surabaya. Lực lượng đặc nhiệm được tiếp tế từ các tàu chở dầu ở vịnh Exmouth vào ngày 15 tháng 5 trước khi tấn công vào ngày 17 tháng 5. Cuộc tấn công nghi binh phân tán, với tên mã Chiến dịch Millet, bao gồm một loạt các cuộc bắn phá và ném bom xuống căn cứ và tàu bè Nhật Bản tại khu vực eo biển Malacca và Car Nicobar, gây ấn tượng là Đồng Minh đang chuẩn bị chiếm Malaya. Bất chấp những thiệt hại nặng nề mà nó gây ra cho khu vực bị tấn công, Chiến dịch Millet thất bại không thể thu hút một phản ứng đáng kể từ phía Nhật, vì mọi lực lượng sẵn có của họ đều đang trên đường hướng sang Philippines cho trận Hải chiến vịnh Leyte mang tính quyết định. Cho đến khi chiến tranh kết thúc, nó đã được tặng thưởng năm Vinh dự Chiến trận do thành tíc phục vụ trong Thế Chiến II. Queenborough là chiếc cuối cùng được nhập biên chế cùng Hải quân Australia vào tháng 9 năm 1945 để hoán đổi cho chiếc HMAS Norman. Một đề nghị của Chính phủ Australia sẽ chi trả phí tổn cho việc cải biến năm chiếc tàu cho mượn, với chi phí ước tính 400.000 Bảng Australia cho mỗi chiếc. Việc cải biến nằm trong một kế hoạch chung nhằm nâng cao khả năng chống tàu ngầm của Hải quân Hoàng gia Australia, cho dù Queenborough và các tàu chị em chỉ là giải pháp tạm thời cho đến khi các tàu frigate chế tạo cho mục đích chống tàu ngầm có mặt.

Việc cải biến bắt đầu bằng việc tháo dỡ toàn bộ vũ khí của con tàu. Chất lượng nghỉ ngơi được cải thiện. Kết quả của việc cải biến khiến con tàu tăng thêm trọng lượng choán nước tiêu chuẩn, và mớn nước của con tàu cũng tăng từ lên . Cánh đuôi và tháp chỉ huy của Tabard bị hư hại, và phía dưới lườn tàu chiếc tàu frigate bị hư hại nhẹ, nhưng cả hai con tàu đều có thể quay trở về Sydney mà không cần sự trợ giúp. Đến tháng 9, nó và tàu chị em Quiberon lại được bố trí cùng Lực lượng Dự bị Chiến lược Viễn Đông. Vào ngày 26 tháng 10, hai con tàu đã tham gia vào việc cứu vớt những người sống sót từ chiếc MV Kawi. Hai con tàu đã viếng thăm Calcutta, Ấn Độ vào tháng 12 trước khi quay trở về Hong Kong đón lễ Giáng Sinh. Trong chuyến viếng thăm của Nữ hoàng Elizabeth II đến Australia vào tháng 3 và tháng 4 năm 1963, nó được bố trí tại vùng biển giữa Australia và New Caledonia như một tàu giải cứu không-biển dự phòng cho chặng bay tiếp theo của Nữ hoàng.

Như một tàu huấn luyện

Sau khi trải qua ba năm trong thành phần dự bị, một nhu cầu về huấn luyện đã đưa Queenborough nhập biên chế trở lại vào ngày 28 tháng 7 năm 1966 như một tàu huấn luyện chống tàu ngầm. Một phiên bản radar cải tiến Kiểu 978 được trang bị. Một nhà nghiên cứu Australia trên đảo Macquarie cần được sơ tán y tế; do là con tàu Australia ở gần nhất, nó đã đổi hướng để đi đến hòn đảo.

Sang đầu năm 1969, hệ thống phân loại và ký hiệu lườn tàu của Hải quân Hoàng gia Australia được thay đổi từ kiểu Anh sang kiểu Hoa Kỳ, và Queenborough được xếp lại lớp như một tàu khu trục hộ tống và mang số hiệu lườn 57 (không có ký tự dẫn đầu). Đến tháng 6 năm 1971, nó rời Sydney để viếng thăm Fiji, Samoa và New Zealand. Biển động mạnh tại vùng biển giữa Fiji và New Zealand đã gây ra những vết nứt ở mũi tàu;

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**HMAS _Queenborough_ (G70/D270/F02/57)**, nguyên là chiếc **HMS _Queenborough_ (G70/D19)**, là một tàu khu trục lớp Q phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và sau đó cùng Hải quân Hoàng gia Australia. Được