Hiệp định The Hague (còn được gọi là Hiệp định Den Haag) được ký kết năm 1661 giữa những đại diện của Đế quốc Hà Lan và Đế quốc Bồ Đào Nha. Theo những điều khoản của hiệp định, Cộng hòa Hà Lan công nhận chủ quyền của Bồ Đào Nha đối với Tân Hà Lan (Brazil thuộc Hà Lan) đổi lại số tiền bồi thường 4 triệu reis, chuyển từ 2 triệu Caroli Guilders, được thanh toán trong vòng 16 năm.
Lịch sử
Năm 1648-49 lực lượng Luso-Brazil đánh bại Hà Lan trong trận Guararapes lần thứ nhất và thứ nhì, và dần dành lại đất đại của họ. Ngoài ra, những cuộc chiến giữa người Anh và Hà Lan đã làm suy yếu lực lượng Hà Lan ở khắp nơi. Vào tháng 1 năm 1654, người Hà Lan đầu hàng và ký hiệp định Taborda, nhưng đó chỉ là một thỏa ước tạm thời.
Sau khi chiến tranh Anh-Hà Lan lần nhất kết thúc, Cộng hòa Hà Lan bắt đầu từ tháng 5 năm 1654 giành lại Tân Hà Lan. Đại Pensionary của Hà Lan Johan de Witt không đồng ý với chiến thuật mạnh tay này vì ông cho rằng thương mại quan trọng hơn việc sở hữu lãnh thổ. Do đó, một hiệp ước hòa bình được ký ngày 6 tháng 8 năm 1661 tại The Hague với điều khoản Tân Hà Lan được bán cho Bồ Đào Nha với giá trị tương đương 63 tấn vàng. Hiệp ước sau đó dẫn đến một thỏa thuật giữa Java thuộc Hà Lan và Đông Timor thuộc Bồ Đào Nha/ Hà Lan hứa không xâm phạm Timor vì Hiệp ước The Hague phát biểu không bên nào được tuyên chiến hoặc xâm phạm lãnh thổ hoặc thuộc địa đối phương.
Sách
- Cabral de Mello, Evaldo, O Negócio do Brasil - Portugal, os Países Baixos e o Nordeste 1641-1669. Rio de Janeiro: Topbooks, 1998.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiệp định The Hague** (còn được gọi là **Hiệp định Den Haag**) được ký kết năm 1661 giữa những đại diện của Đế quốc Hà Lan và Đế quốc Bồ Đào Nha. Theo những điều
**Brasil thuộc Hà Lan**, hay còn gọi là **Tân Hà Lan**, là phần phía bắc của thuộc địa Bồ Đào Nha ở Brasil, cai quản bởi Cộng hòa Hà Lan trong quá trình Hà Lan
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**George I** (George Louis; ; 28 Tháng 5 năm 1660 – 11 tháng 6 năm 1727. Ông là con trai cả của Ernest Augustus, Công tước xứ Brunswick-Lüneburg, và vợ của ông, Sophia xứ Palatinate.
**Charles II của Anh** (29 tháng 5 năm 1630 – 6 tháng 2 năm 1685) là vua của Anh, Scotland, và Ireland. Ông là vua Scotland từ 1649 đến khi bị lật đổ năm 1651, và
**Sophie của Pfalz** (thường được gọi là **Sophie của Hannover**; 14 tháng 10 1630 – 8 tháng 6 năm 1714) là Tuyển hầu phu nhân xứ Hannover từ năm 1692 đến 1698. Bà trở thành
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Gambia** (phiên âm tiếng Việt: **Găm-bi-a**), quốc hiệu là **Cộng hòa Gambia** (tiếng Anh: _Republic of The Gambia_) là một quốc gia tại Tây Phi, được vây quanh bởi Sénégal với một đường bờ biển
**Đế quốc Hà Lan** () bao gồm các vùng lãnh thổ ở nước ngoài thuộc tầm kiểm soát của Hà Lan từ thế kỷ 17 đến những năm 1950. Người Hà Lan đã theo sau