✨Heavy metal

Heavy metal

Heavy metal (hay viết tắt là metal) là thể loại nhạc rock phát triển vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, chủ yếu ở hai thị trường Vương quốc Liên hiệp Anh và Hoa Kỳ. Với nguồn gốc từ blues rock, psychedelic rock và acid rock, các ban nhạc heavy metal xây dựng âm thanh dày và đồ sộ, đặc trưng bởi tiếng guitar có hiệu ứng distortion, các khúc guitar solo mở rộng, nhịp phách và âm lượng mạnh mẽ.

Năm 1968, ba nhóm tiên phong của thể loại này, gồm các ban nhạc người Anh Led Zeppelin, Black Sabbath và Deep Purple được thành lập. Dẫu thu hút được số đông khán giả, họ thường bị giới phê bình chế nhạo. Một số ban nhạc người Mỹ đã điều chỉnh heavy metal thành hình thức dễ đón nhận hơn ở thập niên 1970: âm thanh thô, mỏng và shock rock của Alice Cooper và Kiss; nhạc rock gốc từ blues của Aerosmith; và những câu đàn lead guitar và party rock hào nhoáng của Van Halen. Ở giữa thập niên 1970, Judas Priest giúp thúc đẩy sự phát triển của dòng nhạc bằng cách loại bỏ phần lớn ảnh hưởng từ blues, còn Motörhead trình bày hơi thở của punk rock và tăng cường nhấn mạnh vào tốc độ. Bắt đầu vào cuối thập niên 1970, các ban nhạc nằm trong trào lưu làn sóng heavy metal mới của Anh như Iron Maiden và Saxon cũng đi theo xu thế tương tự. Tính đến cuối thập niên ấy, người hâm mộ heavy metal được biết tới với biệt hiệu "metalhead" hay "headbanger". Ca từ của một vài tiểu thể loại metal gắn liền với sự kích động và cường điệu nam tính - vấn đề đôi khi dẫn tới các cáo buộc kỳ thị nữ giới.

Ở thập niên 1980, glam metal trở nên phổ biến với các nhóm nhạc như Bon Jovi, Mötley Crüe và Poison. Tuy nhiên, trong khi đó thị trường underground đã cho ra đời hàng loạt phong cách kích động hơn: thrash metal thâm nhập vào thị trường đại chúng với các ban nhạc như Metallica, Slayer, Megadeth và Anthrax, còn những tiểu thể loại extreme khác như death metal và black metal đã và đang là hiện tượng tiểu văn hóa. Kể từ giữa thập niên 1990, những phong cách đại chúng đã mở rộng định nghĩa về dòng nhạc. Trong số này có groove metal và nu metal, riêng nu metal thường kết hợp các yếu tố của grunge và hip-hop.

Đặc điểm

Heavy metal có đặc trưng truyền thống là tiếng guitar có hiệu ứng distortion ầm, nhịp mạnh, tiếng bass-and-drum dày đặc và giọng hát nội lực. Các tiểu thể loại heavy metal nhấn mạnh, thay đổi hoặc lược bỏ một hoặc nhiều đặc tính kể trên. Trong một bài viết viết vào năm 1988, nhà phê bình Jon Pareles của The New York Times viết: "Trong phân loại âm nhạc đại chúng, heavy metal là một phân nhánh lớn của hard-rock—loại có ít đảo phách hơn, ít chất blues hơn, nghệ thuật phô diễn hơn và bạo lực hơn." Đội hình ban nhạc thường gồm một tay trống, một tay bass, một tay rhythm guitar, một tay lead guitar và một ca sĩ (có thể chơi nhạc cụ hoặc không). Đôi khi nhạc cụ keyboard được dùng để tăng cường độ dày của âm thanh. Jon Lord của Deep Purple sử dụng cây đàn Hammond organ có hiệu ứng distortion. Năm 1970, John Paul Jones sử dụng cây đàn Moog synthesizer trong Led Zeppelin III. Đến thập niên 1990, đàn synthesizer được sử dụng ở "hầu hết mọi tiểu thể loại heavy metal".

thế=The band Judas Priest are onstage at a concert. From left to right are the singer, two electric guitarists, the bass player, and the drummer, who is seated behind a drumkit. The singer is wearing a black trenchcoat with metal studs.|nhỏ|[[Judas Priest biểu diễn vào năm 2005]] Guitar điện và năng lượng âm thanh mà cây đàn tạo ra thông qua bộ âm ly được xem là yếu tố chủ đạo trong lịch sử heavy metal. Tiếng guitar của heavy metal đến từ sử dụng kết hợp âm lượng lớn và dùng fuzz nhiều. Ở những tông guitar của heavy metal cổ điển, nghệ sĩ guitar duy trì độ khuếch đại ở mức trung bình mà không cần bộ tiền âm ly thừa hay bàn đạp biến âm, nhằm giữ không gian và không khí mở trong âm nhạc. Âm ly guitar được bật to để tạo đặc tính "punch và grind". Tông guitar của dòng thrash metal lấy tần số trung bình và âm thanh bị nén chặt với nhiều tần số âm trầm. Một vài ngoại lệ là các ban nhạc nu metal và grindcore với xu hướng lược bỏ guitar solo. Với các phần rhythm guitar, "tiếng ghiền nặng trong heavy metal... [được tạo ra bởi] kỹ thuật palm mute" lên dây đàn bằng ngón gẩy và sử dụng distortion. Palm mute tạo ra âm thanh chính xác và chặt chẽ hơn, nhấn mạnh dải âm low end.

Vai trò chính của guitar trong heavy metal thường xung đột với vai trò "gương mặt chính" hay thủ lĩnh ban nhạc của giọng ca chính, tạo nên tính căng thẳng trong âm nhạc khi cả hai "tranh quyền thống trị" trên tinh thần "ganh đua bác ái". Heavy metal "đòi hỏi giọng hát phải quy theo" âm thanh chung của ban nhạc. Nhằm phản ánh nguồn gốc của metal ở văn hóa phản kháng thập niên 1960, giọng hát cần "thể hiện cảm xúc triệt để" như một dấu hiệu của tính xác thực. Nhà phê bình Simon Frith cho rằng "tông giọng" của ca sĩ hát nhạc metal quan trọng hơn là phần lời.

Vai trò nổi bật của bass ‍còn là chìa khóa cho âm thanh của nhạc metal, sự phối hợp giữa bass và guitar là yếu tố trọng tâm. Bass mang đến âm thanh low-end để biến phần nhạc thêm "nặng". Bass đóng "vai trò quan trọng trong heavy metal hơn bất kỳ thể loại rock nào khác". Những câu bass trong nhạc metal có độ phức tạp đa dạng, từ việc giữ âm nền thấp làm nền tảng để tăng cường gấp đôi các câu riff và lick phức tạp cùng với phần lead hoặc rhythm guitar. Một vài ban nhạc lấy bass làm nhạc cụ chính, phương án ấy phổ biến nhờ Cliff Burton của Metallica khi anh cực kỳ chú trọng chơi các câu solo trên bass và sử dụng hợp âm trên cây bass ở đầu thập niên 1980. Lemmy của Motörhead thường chơi hợp âm năm có dùng distortion trong các câu đàn bass.

Bản chất của tiếng trống heavy metal là tạo ra nhịp đập ầm ĩ, dồn dập cho ban nhạc, sử dụng "tổ hợp ba thứ là tốc độ, sức mạnh và độ chính xác". Tiếng trống heavy metal "đòi hỏi lượng sức bền phi thường", và các tay trống phải phát triển "tốc độ, sự phối hợp và khéo léo đáng kể... để đánh những mẫu hình phức tạp" sử dụng trong heavy metal. Kỹ thuật chơi trống đặc trưng của metal là cymbal choke - gồm đập một cái chũm chọe và rồi ngay lập tức lấy tay kia giữ yên nó bằng (hoặc trong một số trường hợp là bằng chính tay đập), tạo ra âm vang rền. Bộ trống trong metal thường lớn hơn nhiều so với những bộ trống dùng trong các loại hình nhạc rock khác. Black metal, death metal và một vài ban nhạc "mainstream metal" "đều phụ thuộc vào double-kick và blast beat". thế=Female musician Enid Williams from the band Girlschool and Lemmy Kilmeister from Motörhead are shown onstage. Both are singing and playing bass guitar. A drumkit is seen behind them.|trái|nhỏ|Enid Williams từ nhóm [[Girlschool và Lemmy từ nhóm Motörhead diễn trực tiếp vào năm 2009. Quan hệ gắn kết hai ban nhạc bắt đầu vào thập niên 1980 và vẫn sâu sắc ở thập niên 2010.]]

Trong biểu diễn trực tiếp, độ ầm ĩ – tức "công phá âm thanh" theo miêu tả của nhà xã hội học Deena Weinstein – được xem là yếu tố không thể thiếu. Trong cuốn sách Metalheads, nhà tâm lý học Jeffrey Arnett ví các buổi hòa nhạc heavy metal là "mang cảm giác tương đương với chiến trận". Tiếp nối sự dẫn dắt của Jimi Hendrix, Cream và the Who, các nghệ sĩ heavy metal đời đầu như Blue Cheer đã đặt ra những chuẩn mực âm lượng mới. Như Dick Peterson của Blue Cheer chia sẻ: "Tất cả những gì bọn tôi biết là bọn tôi muốn nhiều sức mạnh hơn." Một bài đánh giá buổi hòa nhạc của Motörhead vào năm 1977 lưu ý cách mà "âm lượng cực khủng đã thể hiện tác động của ban nhạc cụ thể ra sao". Weinstein cho rằng tương tự như giai điệu là yếu tố chính của nhạc pop còn nhịp điệu là trọng tâm chính của nhạc house, âm thanh, âm sắc và âm lượng mạnh mẽ là những yếu tố chủ chốt của metal. Cô nhận định rằng độ ầm ĩ được tạo ra để "cuốn thính giả vào âm thanh" và mang đến "sinh khí của tuổi trẻ".

Trước thập niên 1980, các nghệ sĩ trình diễn heavy metal có xu hướng gần như bị nam giới chi phối. Cho đến khoảng giữa thập niên 1980, một vài ngoại lệ như Girlschool đã xuất hiện. và Craig Hayes của PopMatters nhận xét rằng nhạc metal "rõ ràng đang làm tăng cường quyền của nữ giới". Trong các tiểu thể loại power metal and symphonic metal, có một số lượng lớn các ban nhạc chọn phụ nữ làm ca sĩ chính như Nightwish, Delain và Within Temptation.

Ngôn ngữ âm nhạc

Nhịp điệu và tiết tấu

nhỏ|Ví dụ về mẫu nhịp sử dụng trong heavy metal. Khuông nhạc phía trên là phần chơi rhythm guitar với kỹ thuật palm-mute. Khuông nhạc dưới là phần chơi trống. Nhịp trong các bài hát metal rất mạnh mẽ với những chỗ nhấn âm có chủ đích. Weinstein nhận xét rằng dải hiệu ứng âm thanh lớn dành cho các tay trống chơi metal khiến cho "mẫu hình nhịp thêm phần phức tạp với tính nhất quán và điều khiển mạnh mẽ". Ở nhiều bài hát heavy metal, phần groove chính có đặc điểm là những nhịp ngắn hai- hoặc ba-nốt – thường được cấu thành từ nốt móc đơn hoặc nốt móc kép. Những nhịp này thường được trình bày kèm với một đoạn ngắt âm - được tạo ra nhờ sử dụng kỹ thuật palm-mute trên rhythm guitar.

Những tế bào nhịp ngắn gọn, đột ngột và rời rạc được nối thành các cụm nhịp với kết cầu đặc biệt, mà thường là giật cục. Những cụm nhịp này được dùng để tạo ra phần đệm nhịp và hình nhịp giai điệu gọi là riff - giúp xây dựng các câu hook liên quan. Các bài hát heavy metal còn sử dụng hình nhịp dài hơn như hợp âm nốt tròn- hoặc dấu chấm dôi ở các bản nhạc power ballad nhịp chậm. Tiết tấu trong nhạc heavy metal sơ khai có xu hướng "chậm, thậm chí là nặng nền". Tuy nhiên đến cuối thập niên 1970, các ban nhạc metal đã sử dụng nhiều loại nhịp khác nhau, và gần đây nhất vào những năm 2000, nhịp nhạc metal trải dài từ nhịp ballad chậm (nốt đen = 60 phách/phút) cho tới nhịp blast beat cực kỳ nhanh (nốt đen = 350 phách/phút).

Hòa âm

Một đặc trưng của thể loại này là hợp âm năm trên guitar. Về mặt kỹ thuật, hợp âm năm tương đối đơn giản: nó chỉ gồm một quãng chính, thường là quãng năm đúng, song quãng tám có thể được thêm để nhân đôi hợp âm chủ. Khi đánh hợp âm năm trên dây đàn thấp hơn ở âm lượng lớn và cùng với distortion, có thể tạo ra âm tần số thấp bổ sung, bổ sung thêm "sức nặng của âm thanh" và tạo nên hiệu ứng "năng lượng áp đảo". Dẫu cho quãng năm đúng là phổ biến nhất với hợp âm năm, song hợp âm năm cũng dựa trên các quãng khác như quãng ba thứ, quãng ba trưởng, quãng bốn đúng, quãng năm giảm hoặc quãng sáu thứ. Đa số hợp âm năm được trình tấu với cách sắp xếp vị trí ngón tay nhất quán, để có thể dễ dàng trượt ngón lên và xuống trên phím đàn.

Cấu trúc hòa âm điển hình

Heavy metal thường được dựa trên các câu riff với ba đặc điểm hòa âm chính: tiến trình âm giai điệu thức, quãng tam cung và tiến trình nửa cung, và sử dụng các âm nền. Heavy metal truyền thống có xu hướng sử dụng các âm giai điệu tính, đặc biệt là điệu tính Aeolia và điệu tính Phrygia. Về mặt hòa âm mà nói, thể loại này thường kết hợp các tiến trình hợp âm điệu tính như tiến trình Aeolia I-♭VI-♭VII, I-♭VII-(♭VI), or I-♭VI-IV-♭VII và tiến trình Phrygia, ngầm thể hiện quan hệ giữa I và ♭II (ví dụ như I-♭II-I, I-♭II-III hay I-♭II-VII). Quan hệ âm giai bảy nốt hoặc quãng tam cung với âm sắc căng thẳng được sử dụng trong một số tiến trình hợp âm nhạc metal. Bên cạnh việc sử dụng quan hệ hòa âm điệu tính, heavy metal cũng sử dụng "âm giai ngũ cung và nhạc lý gốc blues".

Quãng tam cung (quãng dài tới ba cung – ví dụ như từ Đô tới Fa#) được các chuyên gia âm nhạc thòi Trung Cổ và thời Khai sáng nhận xét là cực kỳ nghịch tai và bất ổn. Nó thường có biệt danh là diabolus in musica – "ác quỷ trong âm nhạc".

Các bài hát heavy metal sử dụng dày đặc âm nền làm cơ sở hòa âm. Âm nền là tông điệu duy trì liên tục, thường là ở dải âm trầm, trong đó có ít nhất là một hòa âm lạ (ví dụ như quãng nghịch) ở những đoạn nhạc khác. Theo Robert Walser, quan hệ hòa âm của heavy metal "thường khá phức tạp" và phép phân tích hòa âm do các nghệ sĩ và giáo viện dạy nhạc metal thực hiện "thường cực kỳ rắc rối". Trong nghiên cứu về cấu trúc hợp âm heavy metal, giới học giả kết luận rằng "nhạc heavy metal thể hiện độ phức tạp lớn hơn nhiều" so với góc nhìn của các nhà nghiên cứu âm nhạc khác. Kurt Bachmann của nhóm Believer cho rằng "nếu làm đúng cách thì nhạc metal và cổ điển khá là hợp nhau. Nhạc cổ điển và metal có thể là hai thể loại có nhiều điểm chung nhất khi nhắc đến cảm âm, kết cấu, độ sáng tạo."

Tuy một số nhạc sĩ metal thường nhắc đến các nhà soạn nhạc làm cảm hứng, nhạc cổ điển và metal có gốc rễ ở nhiều truyền thống và thực hành văn hóa khác nhau – nhạc cổ điển theo truyền thống nhạc nghệ thuật, còn metal thì theo truyền thống nhạc đại chúng. Như chuyên gia âm nhạc Nicolas Cook và Nicola Dibben lưu ý: "Đôi khi những phép phân tích âm nhạc đại chúng tiết lộ ảnh hưởng của 'truyền thống nghệ thuật.' Ví dụ là việc Walser liên hệ nhạc heavy metal với các hệ tưởng, thậm chí là một vài thực hành diễn tấu của chủ nghĩa lãng mạn ở thế kỷ 19. Tuy nhiên, sẽ là cực kỳ nhầm lẫn nếu cho rằng những truyền thống như nhạc blues, rock, heavy metal, rap hay dance đa phần xuất phát từ "nhạc nghệ thuật.'"

Chủ đề ca từ

Theo David Hatch và Stephen Millward, Black Sabbath và nhiều ban nhạc heavy metal hậu bối được họ truyền cảm hứng chú trọng viết phần ca từ về "đề tài đen tối u uất ở mức độ chưa từng có tiền lệ ở bất kỳ loại nhạc pop nào." Họ trích ví dụ ở album thứ hai Panoid (1970) của Black Sabbath, album "đưa vào những bài hát nói về chấn thương tâm lý - 'Paranoid' và 'Fairies Wear Boots' (bài này mô tả tác dụng phụ đáng sợ của sử dụng ma túy), cũng như những bài về các vấn đề nghiêm trọng hơn, như hai bài tự diễn giải 'War Pigs' và 'Hand of Doom.'" Xuất phát từ gốc rễ ở nhạc blues, tình dục là một đề tài quan trọng nữa trong heavy metal. Chủ đề ấy trải dài từ phần lời ca khúc có tính gợi mở của Led Zeppelin cho đến những câu từ phản cảm hơn của các ban nhạc glam metal và nu metal. thế=Two members from the band King Diamond are shown at a concert performance. From left to right are the singer and an electric guitarist. The singer has white and black face makeup and a top hat. Both are wearing black.|nhỏ|[[King Diamond (ban nhạc)|King Diamond nổi danh nhờ sáng tác ca từ chủ đề về truyện kinh dị.]] Từ lâu, nội dung chủ đề của heavy metal đã trở thành đề tài bị chỉ trích. Theo lời Jon Pareles: "Đối tượng chủ đề chính của heavy metal vừa đơn giản vừa phổ biến. Với tiếng khịt ngắn, rền rĩ và phần lời ca khúc dưới văn học, dòng nhạc tôn vinh ... một bữa tiệc không giới hạn... Điểm chính của phần nhạc thì theo lối cách cách điệu và không theo khuôn khổ nào." Ở thập niên 1980, the Trung tâm nguồn âm nhạc của phụ huynh (tiếng Anh: Parents Music Resource Center, viết tắt là PMRC) nộp đơn thỉnh cầu Quốc hội Hoa Kỳ quản lý ngành công nghiệp âm nhạc đại chúng do nhóm khẳng định rằng phần lời các bài hát đáng bị lên án, đặc biệt trong những bài nhạc heavy metal. Andrew Cope cho rằng những phát ngôn chỉ ra phần lời bài hát heavy metal có yếu tố kỳ thị phụ nữ đúng là "quá lầm lạc", vì những nhà phê bình này "không chú ý đến quá nhiều bằng chứng cho thấy điều ngược lại". Nhà phê bình Robert Christgau xem nhạc metal là "phương thức biểu đạt mà đôi khi sẽ vẫn tồn tại, chừng nào những chàng trai da trắng bình thường còn sợ gái, tự thương hại mình và được phép nổi cơn thịnh nộ chống lại thế giới mà họ sẽ chẳng bao giờ đánh bại nổi".

Những nghệ sĩ heavy metal phải bảo vệ lời ca khúc của họ trước tòa án và Thượng viện Hoa Kỳ. Năm 1985, giọng ca Dee Snider của Twisted Sister được đề nghị bảo vệ ca khúc "Under the Blade" tại một phiên điều trần của Thượng viện Hoa Kỳ. Tại phiên điều trần, PMRC cáo buộc bài hát nói về khổ dâm và cưỡng hiếp. Snider thì đáp bài hát nói về ca phẫu thuật cổ họng của đồng đội trong ban nhạc. Năm 1986, Ozzy Osbourne bị kiện vì phần lời trong bài hát "Suicide Solution". Người đâm đơn kiện Osbourne là phụ huynh của John McCollum - cậu thiếu niên mắc chứng u sầu, được cho đã tự sát sau khi nghe bài hát của Osbourne. Osbourne không phải chịu trách nhiệm cho cái chết của cậu bé. Năm 1990, Judas Priest bị phụ huynh của hai thanh niên trẻ kiện ra tòa án Mỹ sau khi hai cậu kia nổ súng tự sát năm năm trước, chúng được cho là đã nghe câu nói kích thích ngầm "hãy làm đi" ("do it") trong bản cover bài "Better by You, Better than Me" của ban nhạc. Khi mà vụ án gây được sự chú ý lớn của giới truyền thông, thì cuối cùng nó lại bị bác bỏ. Năm 1991, cảnh sát Anh tịch thu các đĩa nhạc death metal của hãng thu âm Anh Earache Records, song "truy tố hãng này tội trữ đồ khiêu dâm không thành".

Ở một số quốc gia mà tín đồ Hồi giáo chiếm số đông, heavy metal chính thức bị lên án là mối đe dọa tới các giá trị truyền thông. Ở những nước như Ai cập, Maroc, Malaysia, và Liban, đã xảy ra những sự việc nhạc sĩ và người hâm mộ heavy metal bị bắt giữ và bỏ tù. Năm 1997, cảnh sát Ai Cập bắt giữ nhiều thanh thiếu niên mê nhạc metal, họ bị cáo buộc "thờ quỷ"và báng bổ sau khi cảnh sát phát hiện các đĩa nhạc metal trong khi lục soát nhà họ. Năm 2013, Malaysia cấm Lamb of God biểu diễn ở đất nước mình, với lý do "lời ca khúc của ban nhạc có thể được giải thích là vô cảm với tôn giáo" và báng bổ. Một số người xem nhạc heavy metal là yếu tố chính gây ra các chứng rối loạn sức khỏe tâm thần, và người hâm mộ heavy metal bị mắc bệnh tâm thần hơn, nhưng một nghiên cứu vào năm 2009 chỉ ra rằng điều này không đúng sự thật và người hâm mộ nhạc heavy metal bị mắc bệnh tâm thần với tỉ lệ bằng hoặc thấp hơn so với dân số nói chung.

Thời trang và hình ảnh

thế=The band Kiss is shown onstage at a concert. From left to right are the bassist Gene Simmons, two electric guitarists and the drummer, who is at the rear of the stage. Simmons is wearing spiked clothing and his tongue is extended. All members have white and black face makeup. Large guitar speaker stacks are shown behind the band.|nhỏ|[[Kiss (ban nhạc)|Kiss với tạo hình hóa trang biểu diễn vào năm 2004]] Với nhiều nghệ sĩ và ban nhạc, diện mạo đóng vai trò lớn trong heavy metal. Ngoài mặt âm thanh và lời ca khúc, hình ảnh của một ban nhạc heavy metal được thể hiện trên bìa đĩa, logo, thiết kế sân khấu, quần áo, thiết kế nhạc cụ và video âm nhạc.

Tóc dài buông xõa là "đặc điểm phân biệt quan trọng nhất trong thời trang heavy metal". Với nguồn gốc từ tiểu văn hóa hippie, đến thập niên 1980 và 1990, kiểu tóc heavy metal "tượng trưng cho sự căm ghét, lo âu và vỡ mộng của một thế hệ dường như chưa từng cảm thấy như vậy ở nhà", theo nhà báo Nader Rahman. Tóc dài mang lại cho cộng đồng nhạc metal "sức mạnh mà họ cần để nổi loạn trước bất cứ điều gì nói chung".

Đồng phục truyền thống của người hâm mộ heavy metal gồm quần jean màu sáng, rách, sờn hoặc xanh dương nhạt, áo phông, ủng màu đen, áo khoác da màu đen hoặc bằng vải denim. Deena Weinstein viết: "Áo phông thường được in logo hoặc hình ảnh đại diện khác của những ban nhạc metal yêu thích." Ở thập niên, hàng loạt nguồn ảnh hưởng khác nhau từ punk rock và gothic đến phim kinh dị đã tác động đến thời trang nhạc metal. Nhiều nghệ sĩ biểu diễn nhạc metal ở thập niên 1970 và 1980 sử dụng nhạc màu sáng hoặc màu cơ bản để làm nổi bật diện mạo của họ trên sân khấu.

Thời trang và phong cách cá nhân đặc biệt quan trọng với các ban nhạc glam metal thời bấy giờ. Các nghệ sĩ biểu diễn thường để tóc dài, nhuộm hoặc xịt keo (do đó mới có biệt hiệu "hair metal"); trang điểm như son môi và kẻ mắt; mặc quần áo lòe lẹt, gồm áo sơ mi hoặc áo vest in họa tiết da báo và quần da, vải denim hoặc vải spandex bó; và đeo các phụ kiện như băng đô và trang sức. Với nghệ sĩ heavy metal X Japan khởi xướng vào cuối thập niên 1980, các ban nhạc trong trào lưu metal ở Nhật được gọi là visual kei, họ gồm nhiều nhóm nhạc không chơi dòng metal, song nổi bật với phục trang, tóc và trang điểm cầu kỳ.

Động tác hình thể

thế=Image shows a band onstage with fans visible in the front of the picture. Some fans are raising their fists and others are raising their hands with the index finger and pinky extended.|nhỏ|Người hâm mộ giơ nắm đấm và tạo [[Ký hiệu sừng|"ký hiệu sừng" tại một buổi hòa nhạc của Metsatöll.]] Khi biểu diễn trực tiếp, nhiều nhạc sĩ metal cũng như khán giả mà họ phục vụ biểu diễn cùng tham gia vào headbanging - động tác lắc lư đầu theo nhịp điệu, thường nổi bật bằng tóc dài. Il cornuto, hay "sừng quỷ" là động tác tay do giọng ca Ronnie James Dio phổ biến trong thời gian ông gắn bó với các ban nhạc Black Sabbath và Dio. Tuy Gene Simmons của Kiss tuyên bố mình là người đầu tiên làm động tác này ở bìa album Love Gun (1977), vẫn có những đồn đoán xem ai mới là người khởi xướng hiện tượng này.

Những người tham dự các buổi hòa nhạc metal không nhảy theo lối thông thường. Điều này được cho là do đối tượng khán giả của dòng nhạc đa phần là nam giới và "hệ tư tưởng dị tính cực đoan". Hai động tác chính được sử dụng là headbanging và giơ hai lòng bàn tay - vừa thể hiện sự thưởng thức nhạc vừa là động tác theo nhịp điệu. Biểu diễn guitar tưởng tượng trở nên phổ biến trong người hâm mộ nhạc metal ở các buổi hòa nhạc và nghe đĩa nhạc tại gia. Theo Deena Weinstein, các buổi hòa nhạc thrash metal có hai yếu tố chính mà các thể loại metal khác không có: nhảy moshing và stage diving - "được du nhập từ tiểu văn hóa punk/hardcore". Weinstein cho rằng những người tham gia nhảy moshing va người và xô đẩy nhau khi họ di chuyển theo một vòng tròn trong khu vực được gọi là "pit" gần sân khấu. Những người nhảy stage diving thì trèo lên sân khấu cùng ban nhạc rồi "nhảy xuống chỗ khán giả". thuật ngữ được nhóm Hapshash and the Coloured Coat sử dụng trong tựa album Featuring the Human Host and the Heavy Metal Kids (1967) - đây được xem là trường hợp đầu tiên sử dụng cụm từ trong âm nhạc. Sau đó Sandy Pearlman chọn sử dụng cụm từ để miêu tả "phong cách nhôm về mặt ngữ cảnh và hiệu ứng" của nhóm the Byrds, đặc biệt ở album The Notorious Byrd Brothers (1968).

Nhà sử học metal Ian Christe miêu tả những thành phần cấu tạo nên thuật ngữ trong "lối nói của dân hippie": "heavy" gần như đồng nghĩa với "mạnh mẽ" hoặc "sâu sắc", còn "metal" chỉ một loại tâm trạng nhất định, áp đảo và nặng đô như với kim loại. Theo nghĩa này, từ "heavy" là yếu tố cơ bản trong từ lóng của dân beatnik và sau đó là của dân hippie thuộc văn hóa phản kháng, và ám chỉ đến "nhạc nặng" - thường có tiết tấu chậm hơn, các biến thể của nhạc pop tiêu chuẩn được khuếch đại hơn - trở nên phổ biến vào giữa thập niên 1960, ví dụ như liên hệ đến Vanilla Fudge. Đầu năm 1968, album đầu tay của Iron Butterfly có tựa đề Heavy được phát hành. Bài hát đầu tiên sử dụng từ "heavy metal" trong phần ca từ là bài hát "Born to Be Wild" của Steppenwolf - cũng được phát hành năm ấy: "I like smoke and lightning / Heavy metal thunder / Racin' with the wind / And the feelin' that I'm under".

Tài liệu đầu tiên ghi chép về cụm từ trong phê bình nhạc rock xuất hiện trong bài đánh giá abum Got Live If You Want It (1966) của the Rolling Stones do Sandy Pearlman chắp bút - được đăng trên tạp chí Crawdaddy vào tháng 2 năm 1967. Tuy nhiên ông sử dụng từ này để miêu tả về âm thanh thay vì thể loại nhạc: "Trong album này, the Stones chơi [âm thanh] metal. Công nghệ đang nằm trên cái yên xe - dưới dạng một lý tưởng và phương pháp." Một tài liệu nữa xuất hiện trong ấn bản của Rolling Stone ra mắt ngày 11 tháng 5 năm 1968, khi mà Barry Gifford viết về album A Long Time Comin' của ban nhạc người Mỹ Electric Flag: "Chẳng một ai nghe [nhạc của] Mike Bloomfield - bất kể là bật đĩa hay chơi nhạc - trong mấy năm qua có thể mong đợi điều này. Đây là thứ nhạc soul mới, tổng hợp của nhạc blues trắng và nhạc rock heavy metal." Trong ấn bản của Seattle Daily Times ra ngày 7 tháng 9 năm 1968, cây bút Susan Schwartz viết rằng the Jimi Hendrix Experience "sở hữu một âm thanh nhạc blues heavy-metal". Tháng 1 năm 1970, trong bài đánh giá tác phẩm Led Zeppelin II cho Village Voice, Lucian K. Truscott IV miêu tả phần âm thanh là "nặng" ("heavy") và đưa ra so sánh với Blue Cheer và Vanilla Fudge.

Những tài liệu khác lần đầu ghi chép về sử dụng cụm từ là các bài đánh giá của nhà phê bình Metal Mike Saunders. Trong số ra ngày 12 tháng 11 năm 1970 của ấn phẩm Rolling Stone, ông bình luận về một album ra mắt một năm trước của an nhạc người Anh Humble Pie: "Safe as Yesterday Is - sản phẩm đầu tiên của nhóm ở Mỹ - là minh chứng cho thấy Humble Pie có thể gây nhàm chán theo nhiều cách khác nhau. Ở [album này], họ là một ban nhạc dở chơi om sòm, không giai điệu và nặng về heavy metal với các phần om sòm và huyên náo chẳng phải bàn cãi. Có một vài ca khúc hay... và một đống rác khổng lồ." Ông miêu tả đĩa nhạc tự phát hành - sản phẩm mới nhất của nhóm là "hơn cả thứ rác rưởi heavy metal hạng 27".

Trong bài đánh giá album Kingdom Come của Sir Lord Baltimore trong số báo của Creem vào tháng 5 năm 1971, Saunders viết: "Sir Lord Baltimore dường như đã thành thục tất cả những chiêu trò heavy metal hay nhất trong sách." Nhà phê bình Lester Bangs của ấn phẩm Creem được ghi nhận là người phổ biến thuật ngữ qua những bài luận về các ban nhạc như Led Zeppelin và Black Sabbath vào đầu thập niên 1970. Suốt thập kỷ đó, một số nhà phê bình sử dụng từ "heavy metal" gần như để mang hàm ý bôi bác. Năm 1979, nhà phê bình âm nhạc John Rockwell của New York Times miêu tả "heavy-metal rock" theo cách hiểu của mình là "thứ nhạc kích động bạo lực chủ yếu dành cho những tâm trí bị ma túy che mờ". Trong một bài viết khác ông lại miêu tả cụm từ là "thổi phồng những điều cơ bản của nhạc rock một cách lỗ mãng, hấp dẫn các thanh thiếu niên da trắng".

"Downer rock" (do tay trống Bill Ward của Black Sabbath nghĩ ra) là một trong những thuật ngữ đầu tiên được dùng để miêu tả phong cách nhạc, và được áp dụng để chỉ các nghệ sĩ như Sabbath và Bloodrock. Tạp chí Classic Rock miêu tả văn hóa downer rock xoay quanh việc sử dụng Quaaludes và uống rượu. Về sau cụm từ bị thay thế thành "heavy metal".

Trước đó, khi "heavy metal" xuất phát một phần từ nhạc psychedelic rock nặng - hay còn gọi là acid rock, "acid rock" thường được sử dụng luân phiên với "heavy metal" và "hard rock". "Acid rock" thường miêu tả nhạc psychedelic rock nặng, thô ráp hoặc gay gắt. Chuyên gia âm nhạc học Steve Waksman bình luận: "đôi lúc, khác biệt giữa acid rock, hard rock và heavy metal có thể chẳng quá đáng kể", còn nghệ sĩ chơi bộ gõ John Beck định nghĩa "acid rock" là đồng nghĩa với hard rock và heavy metal.

Ngoài "acid rock", các thuật ngữ "heavy metal" và "hard rock" thường được sử dụng luân phiên, đặc biệt để chỉ các ban nhạc ở thập niên 1970 - thời gian mà những thuật ngữ này đa phần là đồng nghĩa. Ví dụ, ấn bản của Rolling Stone Encyclopedia of Rock & Roll (1983) có đoạn viết như sau: "Nổi bật với phong cách hard rock kích động gốc blues, Aerosmith là ban nhạc heavy metal hàng đầu của Mỹ ở giữa thập niên 70".

Tay bass Gene Simmons của Kiss bình phẩm: "Thuật ngữ 'heavy metal' đang tự hủy hoại mình... Khi tôi nghĩ tới heavy metal, tôi luôn nghĩ đến yêu tinh, người lùn, hoàng tử và công chúa độc ác. Rất nhiều tác phẩm của Maiden và Priest mới là những đĩa nhạc metal thực thụ. Tôi cam đoan là địa ngục chẳng nghĩ nhạc metal của Metallica hay Guns N' Roses là metal, hay Kiss là nhạc metal đâu. Metal chẳng liên quan đến việc mặt đất nứt ra và những chú lùn nhỏ cưỡi giống xuất hiện! Bạn biết đấy, như những đĩa nhạc dở của Dio vậy."

Lịch sử thể loại

Tiền thân: thập niên 1950 đến cuối thập niên 1960

Phong cách guitar tinh túy của heavy metal được xây dựng các đoạn riff nặng dùng distortion và hợp âm năm, có nguồn từ đầu thập niên 1950, với các nghệ sĩ guitar Memphis blues như Joe Hill Louis, Willie Johnson và đặc biệt là Pat Hare. Những nguồn ảnh hưởng đầu tiên gồm các bản nhạc khí của Link Wray ở cuối thập niên 1950, đặc biệt là bài "Rumble" (1958); nhạc surf rock của Dick Dale đầu thập niên 1960, gồm cả bài "Let's Go Trippin'" (1961) và "Misirlou" (1962); và bản cover bài "Louie Louie" (1963) của The Kingsmen - tác phẩm trở thành tiêu chuẩn của garage rock. thế=The band Cream is shown playing on a TV show. From left to right are drummer Ginger Baker (sitting behind a drumkit with two bass drums) and two electric guitarists.|phải|nhỏ|Cream biểu diễn trên chương trình Hà Lan Fanclub vào năm 1968 Tuy nhiên, tiền thân trực tiếp của dòng nhạc bắt đầu ở giữa thập niên 1960. Nhạc blues của Mỹ là nguồn ảnh hưởng lớn tới những nghệ sĩ rock Anh thời bấy giờ. Những ban nhạc như The Rolling Stones và The Yardbirds đã phát triển blues rock nhờ thu các bản cover của những ca khúc nhạc blues truyền thống, và họ thường tăng tiết tấu. Khi họ thể nghiệm với âm nhạc, các ban nhạc blues của Anh (và cả những nghệ sĩ người Mỹ chịu ảnh hưởng từ họ) đã phát triển những đặc trưng sau này của heavy metal (đặc biệt là thứ âm thanh ầm ĩ và sử dụng distortion). The Kinks đóng vai trò lớn trong việc phổ biến thứ âm thanh này bằng bài hit "You Really Got Me" (1964).

Bên cạnh Dave Davies của The Kinks, những nghệ sĩ guitar khác như Pete Townshend của The Who và Jeff Beck của The Yardbirds thử nghiệm với hiệu ứng feedback. Trong khi phong cách chơi trống của blues rock bắt đầu chủ yếu là nhịp shuffle đơn giản trên những chiếc trống nhỏ, các tay trống bắt đầu sử cách tiếp cận mạnh mẽ, phức tạp và ầm ĩ hơn, và tiếng trống của họ có thể nghe được so với tiếng guitar ngày càng ầm ĩ. Tương tự, những giọng ca đã điều chỉnh kỹ thuật và tăng cường phụ thuộc vào âm lượng to hơn, họ thường thể hiện màu sắc cách điệu và giàu tính kịch hơn. Về mặt âm lượng tuyệt đối (sheer volume), đặc biệt là các buổi trình diễn trực tiếp, cách tiếp cận "bigger-louder-wall-of-Marshall" của The Who là nền tảng cho sự phát triển của âm thanh heavy metal sau này.

Sự kết hợp giữa thứ nhạc blues rock nặng và ầm ĩ với psychedelic rock và acid rock đã tạo nên phần lớn nền tảng đầu tiên của heavy metal. Biến thể (hay tiểu thể loại) của psychedelic rock (thường được gọi là "acid rock") đặc biệt giàu sức ảnh hưởng trong heavy metal và sự phát triển của dòng nhạc. Acid rock thường được định nghĩa là biến thể psychedelic rock nặng hơn, ầm ĩ và gay gắt hơn, hoặc là mặt cực hạn hơn của thể loại psychedelic rock. Acid rock thường mang âm thanh chú trọng guitar, sử dụng nhiều distortion, ầm ĩ và ngẫu hứng. Acid rock thường được miêu tả là psychedelic rock ở hình thái "thô ráp và dữ dội nhất", chú trọng vào âm sắc nặng hơn - gắn liền với cả hai thái cực tích cực và tiêu cực của trải nghiệm thức thần, thay vì chỉ có mặt bình yên của sự thức thần. Trái ngược với loại nhạc pop psychedelic rock bất thường hoặc bình yên hơn, các ban nhạc garage acid rock như 13th Floor Elevators là minh chứng tiêu biểu cho thứ âm thanh psychedelic rock hối hả, nặng hơn, u tối và loạn thần hơn, được gọi là acid rock. Đặc trưng của thứ âm thanh ấy là các đoạn guitar riff sử dụng drone, feedback của âm ly, và distortion của guitar, trong khi âm thanh của 13th Floor Elevators đặc biệt có cả tiếng hát kêu chói ti và phần lời ca khúc "đôi khi mất trí". Frank Hoffman lưu ý: "Đôi khi [Psychedelic rock] được gọi là 'acid rock'. Nhãn 'acid rock" được dùng để biến thể hard rock nhịp mạnh thình thịch, được phát triển từ trào lưu garage-punk ở thập niên 1960.... Khi nhạc rock bắt đầu quay lại với âm thanh mềm mỏng, hướng sang nhạc roots ở cuối năm 1968, thì các ban nhạc acid-rock lại chuyển mình thành các nghệ sĩ heavy metal."

Một trong những ban nhạc giàu sức ảnh hưởng nhất khi tạo ra sự kết hợp psychedelic rock và acid rock với thể loại blues rock là nhóm tam tấu rock người Anh Cream. Họ đã tạo nên thứ âm thanh nặng trịch, dữ dội từ các đoạn riff đồng âm giữa nghệ sĩ guitar Eric Clapton và nghệ sĩ bass Jack Bruce, cũng như tiếng trống double bass của Ginger Baker. Hai đĩa LP của nhóm gồm Fresh Cream (1966) và Disraeli Gears (1967) được xem là nguyên mẫu thiết yếu cho phong cách tương lai của heavy metal. Album đầu tayAre You Experienced (1967) của The Jimi Hendrix Experience cũng cực kỳ giàu sức ảnh hưởng. Kỹ thuật siêu hạng của Hendrix được nhiều nghệ sĩ guitar bắt chước theo, còn "Purple Haze" (đĩa đơn thành công nhất trong album) được một số người xem là bài hit heavy metal đầu tiên. Vanilla Fudge (từng ra mắt album đầu tiên cũng trong năm 1967) vừa được được xem là "một trong số ít nhóm của Mỹ liên kết giữa thức thần (psychedelia) và chất liệu sẽ trở thành heavy metal," vừa được coi là nhóm nhạc heavy metal đời đầu của Mỹ. Ở album đầu tay trùng tên, Vanilla Fudge đã tạo nên "các phần chuyển soạn ầm ĩ, nặng và chậm rãi" của những bài hit đương thời, thổi luồng sinh lực dữ dội vào những bài hát này thành "những mảng miếng hoành tráng" và "tắm chúng trong một làn sương siêu thực có dùng distortion". Ban nhạc psychedelic rock người Mỹ Coven (từng diễn mở màn cho các nghệ sĩ heavy metal gây sức ảnh hưởng đầu tiên như Vanilla Fudge và the Yardbirds) đã tự nhập vai thành những người thực hành thuật phù thủy hoặc phép thuật đen, họ sử dụng phần hình ảnh tối màu (satan hoặc thần bí học) trong lời ca khúc, bìa album và các tiết mục biểu diễn trực tiếp - gồm cả những lễ nghi kịch nghệ "Satanic rites". Album đầu tay Witchcraft Destroys Minds & Reaps Souls (1969) của Coven sử dụng hình ảnh những chiếc đầu lâu, tà lễ, thánh giá ngược và tôn thờ Satan. Cả hai bìa album và các màn trình diễn trực tiếp của ban nhạc đã đánh dầu lần đầu tiên xuất hiện ký hiệu sừng trong nhạc rock - về sau trở thành động tác tối quan trọng trong văn hóa heavy metal.

Nguồn gốc: cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970s

thế=Two performers from Steppenwolf are shown in an onstage performance. From left to right are an electric guitarist (only the instrument is shown) and singer John Kay, who is swinging the microphone.|phải|nhỏ|John Kay của nhóm [[Steppenwolf]] Giới phê bình đang bất đồng về việc nhóm nào mới có thể được xem là ban nhạc heavy metal đầu tiên. Số đông ghi nhận các ban nhạc người Anh Led Zeppelin và Black Sabbath: những bình luận viên người Mỹ thường ưa chuộng Led Zeppelin, còn những bình luận Anh thì lại ưa chuộng Black Sabbath, song cũng nhiều người cho rằng cả hai ban nhạc được ghi công như nhau. Đôi khi Deep Purple (ban nhạc thứ ba - nằm trong "bộ ba bất hảo" của heavy metal cùng Led Zeppelin và Black Sabbath) lại sở hữu phong cách giao thoa nhiều phong cách nhạc rock cho tới năm 1969 - thời điểm họ theo hướng heavy metal. Một số bình luận viên (chủ yếu là người Mỹ) lại nhận định rằng những nhóm nhạc khác - gồm Iron Butterfly, Steppenwolf, Blue Cheer hay Vanilla Fudge - mới là những người đầu tiên chơi heavy metal.

Năm 1968, loại âm thanh (sẽ thành hình heavy metal sau này) đã bắt đầu hợp nhất. Tháng 1 năm ấy, ban nhạc San Francisco Blue Cheer phát hành bản cover danh tác kinh điển "Summertime Blues" của Eddie Cochran để đưa vào album phòng thu nhóm mang tên Vincebus Eruptum, và nhiều người xem đây là đĩa nhạc heavy metal đích thực đầu tiên. Cùng tháng ấy, Steppenwolf phát hành album đầu tay trùng tên nhóm, mà trong album, bài "Born to Be Wild" nhắc đến "tiếng sấm heavy metal" nhằm miêu tả một chiếc xe mô-tô. Vào tháng 7, nhóm nhạc Jeff Beck Group (với thủ lĩnh Jeff Beck từng là tay guitar của The Yardbirds trước Page) đã phát hành đĩa nhạc đầu tay mang tên Truth. Trong album, một số bài có "những tiếng ồn thú vị bộc trực, sắc bén và nung chảy rực rỡ nhất mọi thời đại", mở đường cho những thế hệ 'tiều phu' metal. Vào tháng 9, ban nhạc mới của Page mang tên Led Zeppelin, có buổi trình diễn trực tiếp đầu tiên ở Đan Mạch (song lúc ấy vẫn bị gán tên The New Yardbirds). Album kép cùng tên của ban nhạc The Beatles (phát hành vào tháng 11) có sự xuất hiện của "Helter Skelter" - một trong những ca khúc có âm thanh nặng trịch nhất mà một ban nhạc lớn từng phát hành lúc bấy giờ. Tác phẩm rock opera S.F. Sorrow của The Pretty Things (phát hành vào tháng 12) có xuất hiện các ca khúc "heavy metal nguyên thủy" (proto heavy metal) như "Old Man Going" và "I See You". Đôi khi bài hát "In-A-Gadda-Da-Vida" (1968) của Iron Butterfly được miêu tả ví dụ của sự chuyển giao giữa acid rock và heavy metal, hay bước ngoặt để mà acid rock trở thành "heavy metal". Cả hai album In-A-Gadda-Da-Vida (1968) của Iron Butterfly và Vincebus Eruptum (1968) của Blue Cheer đều được miêu tả là đặt nền móng cho heavy metal và tác động cực lớn để biến đổi acid rock thành heavy metal.

Trong thời kỳ văn hóa phản kháng, MC5 (nhóm nhạc bắt đầu sự nghiệp ở giới nhạc garage rock Detroit) đã phát triển một phong cách thô ráp và có sử dụng distortion - được xem là tác động lớn đến âm thanh tương lai của heavy metal và nhạc punk về sau. The Stooges cũng bắt đầu gây dựng và tác động đến âm thanh của heavy metal và nhạc punk về sau, với những ca khúc như "I Wanna Be Your Dog" - sử dụng các đoạn riff được chơi bằng những hợp âm năm mạnh mẽ và sử dụng distortion trên guitar. Pink Floyd đã phát hành hai ca khúc dữ dội và ầm ĩ nhất của họ tính đến nay là "Ibiza Bar" và "The Nile Song", riêng bài "The Nile Song" được xem là "một trong những bài hát dữ dội nhất mà ban nhạc từng thu âm." Album đầu tay của King Crimson bắt đầu bằng "21st Century Schizoid Man" - ca khúc mà một số nhà phê bình xem là theo tác phẩm heavy metal. thế=A colour photograph of the four members of Led Zeppelin performing onstage, with some other figures visible in the background. The band members shown are, from left to right, the bassist, drummer, guitarist, and lead singer. Large guitar speaker stacks are behind the band members.|trái|nhỏ|[[Led Zeppelin biểu diễn tại Sân vận động Chicago vào tháng 1 năm 1975]] Tháng 1 năm 1969, album đầu tay cùng tên của Led Zeppelin được phát hành và giành vị trí số mười trên bảng xếp hạng album của Billboard. Tháng 7 năm ấy, Led Zeppelin và nhóm tam tấu lấy cảm hứng từ Cream nhưng chơi loại âm thanh thô ráp hơn - có tên gọi Grand Funk Railroad - đã biểu diễn tại nhạc hội Atlanta Pop Festival. Cùng tháng đó, một nhóm tam tấu nữa chịu ảnh hưởng từ do Leslie West làm thủ lĩnh đã phát hành Mountain - album chứa đầy phần guitar blues rock nặng và phần hát nội lực. Vào tháng 8, nhóm nhạc (giờ đây tự xưng là Mountain) đã trình diễn các tiết mục kéo dài cả giờ đồng hồ tại nhạc hội Woodstock, trình bày cho 300.000 khán giả thưởng thức âm thanh đang thành hình của heavy metal. Đặc biệt, bài hit proto-metal hay heavy metal sơ khai "Mississippi Queen" trích từ album Climbing! của Mountain được ghi nhận đã mở đường cho heavy metal và là một trng những bài hát có phần guitar dữ dội đầu tiên được phát sóng thường xuyên trên đài phát thanh. Tháng 9 năm 1969, the Beatles phát hành album Abbey Road. Trong album, bài "I Want You (She's So Heavy)" được ghi nhận là ví dụ đầu tiên hoặc tác động đến heavy metal hay doom metal. Tháng 10 năm 1969, ban nhạc Anh High Tide ra mắt album nhạc nặng, proto-metal mang tên Sea Shanties. Do không thể chơi bình thường, Iommi buộc phải hạ tông đàn guitar xuống để dễ bấm hơn và phụ thuộc vào các hợp âm năm với lối bấm đàn tương đối đơn giản. Chính môi trường công nghiệp ảm đạm của giai cấm công nhân Birmingham (thành phố sản xuất chế tạo đầy các nhà máy và đúc kim loại ầm ĩ) được ghi nhận đã tác động đến thứ âm thanh nặng, nổ bập bùng mang màu sắc kim loại của Black Sabbath nói riêng, và âm thanh của heavy metal nói chung.

Deep Purple đã chơi giao thoa nhiều phong cách trong những năm đầu hoạt động, song đến năm 1969, giọng ca Ian Gillan và nghệ sĩ guitar Ritchie Blackmore đã dẫn dắt ban nhạc hướng theo phong cách heavy metal đang phát triển. Năm 1970, Black Sabbath và Deep Purple có được những bài hit lớn đầu tiên bảng xếp hạng âm nhạc của Anh, lần lượt với "Paranoid" và "Black Night". Cùng năm ấy, hai ban nhạc Anh khác phát hành album đầu tay cũng theo phong cách heavy metal: Uriah Heep với ...Very 'Eavy... Very 'Umble và UFO với UFO 1. Bloodrock cũng phát hành album đầu tay trùng tên, sản phẩm này tập hợp các câu riff guitar heavy metal, lối hát cục cằn và phần ca từ ghê sợ. Nhóm nhạc giàu sức ảnh hưởng Budgie mang đến chất âm thanh metal mới vào đội hình ba thành viên, tạo nên một số tác phẩm nhạc nặng nhất thời bấy giờ. Phần lời ca khúc và hình ảnh huyền bí mà Black Sabbath và Uriah Heep sử dụng thể hiện sức ảnh hưởng đặc biệt. Led Zeppelin cũng bắt đầu ưu tiên các yếu tố ấy với album phòng thu thứ tư - được phát hành vào năm 1971. Năm 1973, Deep Purple phát hành ca khúc "Smoke on the Water". Đoạn riff của bài thường được xem là đoan nhạc dễ nhận ra nhất trong lịch sử "heavy rock", tác phẩm là đĩa đơn trích từ album thu trực tiếp kinh điển Made in Japan. thế=Three members of the band Thin Lizzy are shown onstage. From left to right are a guitarist, bass player, and another electric guitarist. Both electric guitarists have long hair.|phải|nhỏ|[[Brian Robertson, Phil Lynott và Scott Gorham của Thin Lizzy biểu diễn trong Bad Reputation Tour, ngày 24 tháng 11 năm 1977]] Ở bên kia bờ Đại Tây Dương, nhóm nhạc tiên phong của heavy metal là Grand Funk Railroad - họ được miêu tả là "ban nhạc heavy metal người Mỹ thành công nhất trên thị trường thương mại từ năm 1970 cho đến khi tan rã vào năm 1976, [họ] đã xây dựng công thức thành công của thập niên 70: đi tour liên tục." Những ban nhạc giàu sức ảnh hưởng khác được cho là theo thể loại metal đã xuất hiện ở Hoa Kỳ như Sir Lord Baltimore (Kingdom Come, 1970), Blue Öyster Cult (Blue Öyster Cult, 1972), Aerosmith (Aerosmith, 1973) và Kiss (Kiss, 1974). Album đầu tay (1970) của Sir Lord Baltimore và cả album đầu tay lẫn album thứ ba trùng tên của Humble Pie nằm trong số những album đầu tiên được mô tả trên ấn phẩm là "heavy metal", khi mà As Safe As Yesterday Is được gọi với thuật ngữ "heavy metal" trong một buổi phỏng vấn của tạp chí Rolling Stone (1970). Những ban nhạc này còn gây dựng được lượng khán giả theo dõi thông qua việc đi tour liên tục và các chương trình sân khấu được đầu tư ngày một kĩ lưỡng.

Hiện đang nảy sinh những tranh luận về việc những ban nhạc này (hoặc những nhóm hoạt động trước đó) có thật sự đủ điều kiện để phân vào "heavy metal" không, hay chỉ đơn giản là "hard rock". Những ban nhạc ấy gần với gốc rễ blues của thể loại hoặc chú trọng giai điệu nhiều hơn - những đặc điểm phổ thông dùng để miêu tả dòng "hard rock". AC/DC (với tác phẩm đầu tay High Voltage ra mắt năm 1975) là ví dụ điển hình. Lời tựa của cuốn bách khoa toàn thư Rolling Stone năm 1983 bắt đầu bằng đoạn viết: "ban nhạc heavy-metal người Úc AC/DC ..." Sử gia nhạc rock Clinton Walker nhận định: "Gọi AC/DC là một ban nhạc heavy metal ở thập niên 70 không còn chính xác với ngày nay.... [Họ] là một ban nhạc rock 'n' roll, chỉ tình cờ chơi nhạc đủ nặng đối với metal thôi." Vấn đề không chỉ nằm ở thay đổi định nghĩa, mà còn ở sự phân biệt dai dẳng giữa phong cách âm nhạc và sự nhận diện của khán giả. Ian Christe miêu tả cách mà AC/DC "trở thành bàn đạp để một lượng lớn người hâm mộ hard rock tìm đến hủy diệt heavy metal".

Ở một số trường hợp nhất định thì những tranh cãi có phần ít ồn ào hơn. Sau Black Sabbath, ví dụ điển hình tiếp theo là Judas Priest của Anh với tác phẩm đầu tay là Rocka Rolla vào năm 1974. Trong phần miêu tả của Christe ghi chép:

Khán giả của Black Sabbath đã phải... săn tìm những âm thanh có tác động tương tự. Đến giữa thập niên 1970, thẩm mỹ heavy metal có thể đã được phát hiện giống như một con quái thú huyền bí trong phần song tấu guitar phức tạp và tiếng bass ảm đạm của Thin Lizzy, trong nghệ thuật dựng sân khấu của Alice Cooper, trong tiếng guitar cuốn hút mãnh liệt và giọng hát phô trương của Queen, và trong những câu hỏi thời Trung Cổ dữ dội của Rainbow.... Judas Priest đã xuất hiện để thống nhất và khuếc đại những điểm sáng đa dạng này từ bảng màu âm thanh của hard rock. Lần đầu tiên, heavy metal trở thành một thể loại nhạc có chỗ đứng riêng biệt.
Mặc dù Judas Priest không có album nào lọt top 40 ở Hoa Kỳ trước năm 1980, nhưng đối với nhiều người hâm mộ, họ được xem là ban nhạc heavy metal tiêu biểu thời hậu Sabbath: họ sở hữu màn công phá bằng guitar đôi, chơi tiết tấu nhanh và lược bỏ gốc blues, âm thanh kim loại rõ hơn - tất cả đều tác động lớn đến các nghệ sĩ hậu bối. Khi mà heavy metal đang ngày một phổ biến, đa số các nhà phê bình lại không ưa dòng nhạc này. Họ đưa ra những phản đối về việc sử dụng màn biểu diễn gây ấn tượng về mặt hình ảnh và giăng những thủ thuật thương mại khác của metal, song yếu tố phản đối chính là sự vô hồn trong âm nhạc và ca từ. Trong bài đánh giá một album của Black Sabbath ở đầu thập niên 1970, Robert Christgau miêu tả tác phẩm là "vô hồn và suy đồi... ngớ ngẩn, thể hiện sự vô đạo đức."

Thị trường đại chúng: cuối thập niên 1970 và thập niên 1980

thế=Four members of Iron Maiden are shown in concert. From left to right are a bass guitarist and then three electric guitarists. All members shown have long hair.|trái|nhỏ|[[Iron Maiden, một trong những ban nhạc tâm điểm trong Làn sóng mới của heavy metal Liên hiệp Anh]] Giữa thập niên 1970, punk rock xuất hiện dưới hình thức phản ứng trước tình trạng xã hội đương thời cũng như thứ âm nhạc buông thả và bị chỉnh sửa quá nhiều thời bấy giờ, kể cả heavy metal. Ở cuối thập niên 1970, doanh số các đĩa nhạc heavy metal tụt giảm mạnh trước sự xuất hiện của punk, disco và nhạc mainstream rock nữa. Khi mà các hãng thu âm lớn chú trọng vào punk, nhiều ban nhạc heavy metal mới hơn của Anh đã lấy cảm hứng từ âm thanh hung hãn, giàu năng lượng và "lo-fi", tính đặc trưng do it yourself của trào lưu. Các ban nhạc underground metal bắt đầu phát hành các sản phẩm nhạc rẻ hơn dành cho nhóm khán giả nhỏ và trung thành.

Motörhead (được thành lập năm 1975) là ban nhạc có vai trò quan trọng khi vượt qua ranh giới của punk/metal. Với sự bùng nổ của nhạc 1977, hàng loạt ban nhạc đã nương theo xu thế này. Những tạp chí âm nhạc Anh như NMESounds đã để mắt tới sự việc. Cây viết Geoff Barton của Sounds đặt tên cho phong trào là "Làn sóng heavy metal mới của (Liên hiệp) Anh" (NWOBHM). Các ban nhạc thuộc NWOBHM gồm có Iron Maiden, Saxon và Def Leppard đã thổi thêm sinh lực cho thể loại heavy metal. Theo sự dẫn dắt của Judas Priest và Motörhead, họ làm cho âm thanh trở nên mạnh mẽ hơn, tiết chế yếu tố của blues và chú trọng vào tiết tấu ngày càng tốc độ hơn.

Ronnie James Dio (tham gia Black Sabbath vào năm 1979) nhận định: "Đây dường như là sức sống mới của heavy metal,... Tôi chưa từng nghĩ heavy metal sẽ suy tàn (desurgence) – nếu xem đấy là một từ! – nhưng điều quan trọng với tôi là [sau Rainbow], tôi một lần nữa có thể tham gia vào một trào lưu mở đường cho những hậu bối đến sau tôi."

Đến năm 1980, NWOBHM đã thâm nhập vào thị trường đại chúng, khi mà các album của Iron Maiden, Saxon cũng như Motörhead lọt top 10 ở Anh. Tuy kém thành công về mặt thương mại hơn, song những ban nhạc NWOBHM như Venom và Diamond Head lại có tác động đáng kể lên sự phát triển của metal. Năm 1981, Motörhead trở thành nhóm đầu tiên từ thế hệ ban nhạc metal hoàn toàn mới này giành ngôi đầu bảng xếp hạng âm nhạc Anh với album trực tiếp No Sleep 'til Hammersmith.

Thế hệ ban nhạc metal đầu tiên đã nhường lại hào quang cho các hậu bối. Deep Purple sớm tan rã sau khi Blackmore rời đi vào năm 1975, còn Led Zeppelin cũng rã đám sau khi tay trống John Bonham mất vào năm 1980. Black Sabbath thì kiệt quệ bởi mâu thuẫn nội bộ và lạm dụng chất, đồng thời đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ ban nhạc từng diễn khai mạc cho họ là Van Halen. Eddie Van Halen chứng minh anh là một trong những nghệ sĩ guitar metal dẫn đầu của kỷ nguyên. Khúc solo của anh trong bài "Eruption" trích từ album cùng tên ban nhạc vào năm 1978 được xem là một cột mốc lịch sử của thể loại. Âm thanh của Eddie Van Halen còn vươn tới giới nhạc pop khi khúc guitar solo của anh có mặt trong bài "Beat It" của Michael Jackson. Ca khúc ấy đã giành vị trí quán quân ở Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1983.

Lấy cảm hứng từ thành công của Van Halen, một giới nhạc metal bắt đầu phát triển ở Nam California cuối thập niên 1970. Dựa trên các câu lạc bộ trên phố Sunset Strip ở L.A., những ban nhạc như Mötley Crüe, Quiet Riot, Ratt và W.A.S.P. đã chịu ảnh hưởng từ heavy metal truyền thống ở thập niên 1970. Những nhóm này kết hợp tính kịch (và đôi khi là hóa trang) của các ban nhạc glam metal hoặc "hair metal" như Alice Cooper và Kiss. Đặc điểm nhận diện các ban nhạc glam metal là thường để tóc rất dài, diện trang phục đôi khi được xem là phi giới tính. Đặc điểm lời ca khúc của những ban nhạc glam metal này tập trung hành vi khoái lạc và hoang dại, gồm ca từ chứa lời tục về tình dục và sử dụng ma túy. Sau Làn sóng heavy metal mới của Anh và bước đột phá của Judas Priest với British Steel (1980), heavy metal ngày càng phổ biến rộng rãi vào đầu thập niên 1980. Nhiều nghệ sĩ metal hưởng lợi từ số lần lên sóng MTV - kênh này bắt đầu phát sóng vào năm 1981. Doanh số thường thường tăng vọt nếu video của một ban nhạc được trình chiếu trên kênh này. Các video của Def Leppard cho Pyromania (1983) đã biến họ thành siêu sao ở Mỹ, còn Quiet Riot trở thành ban nhạc heavy metal quốc nội đầu tiên giành vị trí nhất bảng Billboard với Metal Health (1983). Một sự kiện quan trọng trong sự phát triển vượt bậc của metal là nhạc hội US Festival (1983) ở California. Tại nhạc hội, "ngày heavy metal" hội tụ những Ozzy Osbourne, Van Halen, Scorpions, Mötley Crüe, Judas Priest và những nhóm khác đã thu hút lượng khán giả đông nhất đến tham dự sự kiện kéo dài ba ngày.

Từ năm 1983 đến 1984, thị phần đĩa nhạc của heavy metal tiêu thụ tại Hoa Kỳ đã tăng từ 8% lên 20%. Một số tạp chí chuyên môn lớn dành riêng cho dòng nhạc này đã ra đời, gồm Kerrang! (1981) và Metal Hammer (1984), cũng như một loạt tạp chí của người hâm mộ. Năm 1985, Billboard ghi nhận: "Metal đã mở rộng lượng khán giả của mình. Nhạc metal không còn độc tôn dành cho các thiếu niên nam nữa. Khán giả metal đã trở nên già hơn (tuổi sinh viên), trẻ hơn (đầu thời thiếu niên) và nhiều nữ giới hơn."

Đến giữa thập niên 1980, glam metal thống trị trên các bảng xếp hạng, truyền hình âm nhạc và chuỗi hòa nhạc ở nhà thi đấu của Hoa Kỳ. Những ban nhạc mới như Warrant từ L.A. và những nhóm từ Bờ Đông như Poison và Cinderella trở thành những người gây sức hút lớn, khi mà Mötley Crüe và Ratt vẫn rất nổi tiếng. Được xem là cầu nối phong cách giữa hard rock và glam metal, Bon Jovi từ New Jersey cực kỳ thành công với album thứ ba mang tên Slippery When Wet (1986). Ban nhạc Thụy Điển Europe sở hữu phong cách tương tự đã trở thành ngôi sao quốc tế với The Final Countdown (1986). Trong album, bài tiêu đề giành vị trí nhất bảng ở 25 quốc gia. Năm 1987, MTV ra mắt Headbangers Ball - chương trình dành riêng để chiếu các video nhạc heavy metal. Tuy nhiên, khán giả metal bắt đầu chia thành nhiều nhóm, các nhóm đó ở trong giới nhạc underground metal ưa chuộng âm thanh gay gắt hơn và coi thường phong cách "light metal" hoặc "hair metal" đang thịnh hành lúc ấy.

Một ban nhạc tiếp cận được nhiều đối tượng khán giả khác nhau là Guns N' Roses. Trái với các đồng nghiệp chơi glam metal ở L.A., họ được xem là thô ráp và nguy hiểm hơn. Với việc ra mắt album đả phá các bảng xếp hạng Appetite for Destruction vào năm 1987, họ "sạc lại năng lượng và gần như một tay duy trì hệ thống tệ nạn của Sunset Strip trong nhiều năm". Một năm sau, Jane's Addiction xuất thân cũng từ giới nhạc hộp đêm hard rock ở L.A. ra mắt album đầu tiên với hãng thu âm lớn mang tên Nothing's Shocking. Trong bài đánh giá album, Steve Pond của Rolling Stone nhận định: "Jane's Addiction chính là những kẻ kế thừa đích thực của Led Zeppelin, hơn bất kỳ ban nhạc nào khác đang hoạt động." Đây được xem là một trong những nhóm đầu tiên gắn liền với xu hướng "alternative metal" - trào lưu sẽ trở thành thế lực ở thập niên tiếp theo. Trong khi đó, những ban nhạc mớiWinger (thành phố New York) và Skid Row (New Jersey) vẫn duy trì sự phổ biến của phong cách glam metal.

Những tiểu thể loại heavy metal khác: thập niên 1980, 1990 và 2000

thế=The drummer from the band Suicidal Tendencies, Eric Moore, is shown behind his drumkit. One hand is raised with the index finger and pinky extended.|trái|nhỏ|Tay trống Eric Moore của ban nhạc [[crossover thrash Suicidal Tendencies]] Nhiều tiểu thể loại heavy metal đã phát triển ngoài thị trường thương mại đại chúng ở thập niên 1980, ví dụ như crossover thrash. Một số nhân vật đã cố vẽ nên bản đồ phức tạp của underground metal, nổi bật nhất là các biên tập viên của AllMusic, cũng như nhà phê bình Garry Sharpe-Young. Bách khoa toàn thư nhiều tập về metal của Sharpe-Young chia giới underground thành năm tiểu thể loại lớn: thrash metal, death metal, black metal, power metal và các tiểu thể loại liên quan của doom và gothic metal.

Năm 1990, một bài đánh giá của Rolling Stone đề xuất loại bỏ thuật ngữ "heavy metal" vì cho rằng thể loại này "mơ hồ một cách lố bịch". Bài viết chỉ ra rằng thuật ngữ chỉ làm tăng "các tín đồ yêu rock & roll hi

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Heavy metal** (hay viết tắt là **metal**) là thể loại nhạc rock phát triển vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, chủ yếu ở hai thị trường Vương quốc Liên hiệp Anh
nhỏ|Một fan hâm mộ heavy metal mặc bộ quần áo có kim loại và các ngón tay thể hiện ký hiệu _[[Sign of the horns_.]] Những người hâm mộ dòng nhạc heavy metal đã tạo
**Làn sóng mới của nhạc heavy metal Mỹ** (tiếng Anh: **New wave of American heavy metal**; viết tắt là **NWOAHM**, hay **new wave of American metal**) là một trào lưu nhạc heavy metal bắt nguồn
**Heavy metal** có một số tiểu thể loại sau: *Alternative metal *Avant-garde metal *Black metal *Christian metal *Crust punk *Death metal *Doom metal *Drone metal *Extreme metal *Folk metal *Funk metal *Glam metal *Gothic metal
**Thrash metal** là một nhánh chính của heavy metal có đặc điểm là nhịp rất nhanh và kích động. Chất nhạc của thrash metal thường sử dụng những riff guitar khoảng âm thấp và đánh
**Kawaii metal** (còn được gọi là **idol metal**, **cute metal**, **J-pop metal** hoặc **kawaiicore**) là một thể loại nhạc pha trộn các yếu tố của heavy metal và J-pop ra đời tiên phong ở Nhật
**Alternative metal** là một nhánh của heavy metal đã chiếm được sự phổ biến trong những năm đầu 1990 bên cạnh và giao với nhạc grunge. Nó có đặc điểm được chú ý nhiều nhất,
**Symphonic metal** là một thể loại nhạc rock mới được hình thành vào cuối thập niên 90 của thế kỷ 20, kết hợp giữa heavy metal và âm hưởng của nhạc giao hưởng cổ điển,
**Power metal** là một tiểu thể loại của heavy metal kết hợp các đặc điểm của heavy metal truyền thống với speed metal, thường nằm trong nền nhạc giao hưởng. Nói chung, power metal có
**Progressive metal** (đôi khi rút ngắn tên thành **prog metal**) là một thể loại nhạc kết hợp giữa heavy metal và progressive rock, tức kết hợp thứ âm thanh ồn "kích động" và âm thanh
**Death metal** là một nhánh của heavy metal. Nó đặc trưng bởi tiếng guitar bị bóp méo nặng, growl vocal thấp, trống blast beat, và cấu trúc ca khúc phức tạp với nhiều thay đổi
**Dark metal** là một nhánh con của heavy metal ảnh hưởng từ doom metal, gothic metal, black metal và death metal. Cụm từ này bắt nguồn từ album đầu tay Dark Metal của ban nhạc
**Black metal** là một nhánh chính của heavy metal có đặc điểm sử dụng nhịp nhanh, vocal có giọng rít và thé, tiếng guitar bị biến âm (distortion) và thường chơi ở khoảng âm cao
**Glam metal** (còn được gọi là **hair metal** hay **pop metal**) là một tiểu thể loại của heavy metal, đặc trưng bởi các đoạn hook và guitar riff chịu ảnh hưởng từ pop, đồng thời
**Speed metal** là một nhánh con của heavy metal hình thành vào những năm đầu 1980, bắt nguồn từ trào lưu New Wave of British Heavy Metal và hardcore punk. Được Allmusic mô tả là
**Melodic death metal** (còn được gọi là melodeath) là một subgenre của death metal, kết hợp giai điệu của New Wave of British Heavy Metal (NWOBHM) với cường độ âm thanh của death metal. Thể
**Nu metal** (**nu-metal**, còn gọi là **aggro metal**, hay **nü metal** theo truyền thống dùng dấu umlaut cho các tên heavy metal) là một thể loại âm nhạc khởi nguyên từ giữa thập niên 1990.
**Industrial metal** là một thể loại âm nhạc chịu sự ảnh hưởng từ industrial dance music, thrash metal và hardcore punk, sử dụng những đoạn riff metal lập lại, sample, bộ tổng hợp hoặc "sequencer"
**Groove metal** là một nhánh của heavy metal và Exhorder. ## Đặc điểm và nguồn gốc Album Cowboys from Hell năm 1990 của Pantera được xem như là một "bước đột phá" và "định nghĩa
**Neo-classical metal** là một nhánh xuất phát từ Heavy Metal và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nhạc cổ điển. Do đó cũng có thể coi neo-classical metal là thuộc trường phái nhạc bán cổ
**Doom metal** là một tiểu thể loại nhạc heavy metal thường dùng nhịp độ chậm, điệu guitar chậm với âm thanh "dày hơn" hay "nặng nề hơn" so với các loại metal khác. Cả nhạc
"**Heavy Metal Lover**" là một bài hát của nữ nghệ sĩ thu âm người Mỹ Lady Gaga trích từ album thứ ba của cô ấy, _Born This Way_ (2011). ## Danh sách track **Tải nhạc
Guitar Stompboxes Behringer UM300 -Heavy Metal Distortion Effects Pedal- Hàng chính hãng
MÔ TẢ SẢN PHẨMMPUSAUrban Decay- Nhũ Mắt_ Face_Body Dạng Gel- Heavy Metal Glitter Gel For Eye, Face, Body 14,5ml- Lấy cảm hứng từ gel mắt long lanh bán chạy của Urban Decay từ đầu những
**Sludge metal** (đôi khi được gọi ngắn là "**sludge**") là một thể loại âm nhạc kết hợp các yếu tố của doom metal và hardcore punk, Sludge metal thường thô ráp và mãnh liệt, giọng
**Drone metal** (cũng được gọi là **drone doom** và **power ambient**) là một thể loại âm nhạc kết hợp các yếu tố của doom metal và nhạc drone. hoặc experimental metal. Một số ban nhạc
**Judas Priest** là một ban nhạc heavy metal người Anh được thành lập ở Birmingham vào năm 1969. Nhóm đã tiêu thụ hơn 50 triệu album và thường được xếp vào hàng ngũ những ban
**Avenged Sevenfold** (viết tắt là **A7X**) là một ban nhạc heavy metal người Mỹ đến từ Huntington Beach, California, được thành lập vào năm 1999. Đội hình ban nhạc hiện tại gồm giọng ca M.
**Deep Purple** là một ban nhạc rock người Anh được thành lập ở Hertford, Hertfordshire và Luân Đôn vào năm 1968. Họ được xem là một trong những nhóm tiên phong của dòng nhạc heavy
là một ban nhạc heavy metal tới từ Chiba, Nhật Bản, được thành lập vào năm 1982 bởi tay trống Yoshiki và ca sĩ chính Toshi. Là một ban nhạc mang phong cách chủ yếu
**Udo Dirkschneider** (sinh ngày 6 tháng 4 năm 1952) là một ca sĩ người Đức. Ông lần đầu nổi tiếng nhờ tham gia ban nhạc heavy metal Accept. Sau khi rời ban nhạc vào năm
thumb|upright|Cách thể hiện động tác ký hiệu sừng. **Ký hiệu sừng** (tiếng Anh: **sign of the horns**) là một động tác bằng tay mang nhiều hàm ý và sử dụng trong nhiều nền văn hóa.
**Def Leppard** là một ban nhạc hard rock được thành lập năm 1977 tại Sheffield nước Anh, là thành viên của phong trào New Wave of British Heavy Metal. Nhờ hai album kinh điển là
**Iron Maiden** là một ban nhạc heavy metal người Anh do Steve Harris (tay bass kiêm nhạc sĩ sáng tác chính) thành lập ở Leyton, Đông Luân Đôn vào năm 1975. Tuy chưa ổn định
**Robert John Arthur Halford** (sinh ngày 25 tháng 8 năm 1951) là một ca sĩ và nhạc sĩ sáng tác bài hát người Anh. Ông nổi danh nhất với vai trò ca sĩ chính của
**Savatage** là một nhóm Rock theo phong cách Progressive Heavy Metal được thành lập bởi hai anh em Jon Oliva và Criss Oliva vào năm 1979 tại thành phố Tarpon Springs thuộc bang Florida. Nhóm
**Marko Tapani "Marco" Hietala** (sinh ngày 14 tháng 1 năm 1966 tại Tervo, Phần Lan) là một ca sĩ, tay chơi bass và songwriter thuộc dòng heavy metal. Ông được biết đến nhiều nhất trên
**Accept** là một ban nhạc heavy metal người Đức xuất thân từ Solingen, do tay guitar Wolf Hoffmann cùng hai cựu thành viên Udo Dirkschneider (hát) và Peter Baltes (bass) thành lập vào năm 1976.
"**Guilty All the Same**" là một bài hát của ban nhạc rock người Mỹ Linkin Park. Bài hát được ban nhạc thu âm cho album phòng thu thứ 6 của họ, _The Hunting Party_, và
**Metalcore** là một thể loại kết hợp những nhân tố từ thể loại hardcore punk và extreme metal. Từ này là ghép của heavy _metal_ và hard_core_ punk. Thuật ngữ này được đặt ra vào
**Skid Row** là một ban nhạc heavy metal của Mỹ, được thành lập năm 1986 tại Toms River, New Jersey với các thành viên Rachel Bolan (guitar bass), Dave "the Snake" Sabo (guitar), Scotti Hills
**Grindcore** là một thể loại âm nhạc hình thành vào đầu và giữa thập niên 1980. Nó lấy cảm hứng từ những thể loại nhạc gồm extreme metal (thrash metal và death metal), industrial, noise
**James Owen Sullivan** (9 tháng 3 năm 1981 – 28 tháng 12 năm 2009), còn được biết với nghệ danh **The Rev** (rút gọn của _the Reverend Tholomew Plague_), là một nhạc công và nhạc
**Ian Anderson Paice** (sinh ngày 29 tháng 6 năm 1948) là một nhạc công người Anh, nổi danh nhất với vai trò tay trống và thành viên sáng lập sót lại cuối cùng của ban
**Wolf Hoffmann** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1959) là một nhạc sĩ người Đức, nổi bật nhất nhờ vai trò nghệ sĩ guitar và thành viên sót lại cuối cùng từ đội hình đầu
**Black Sabbath** là một ban nhạc heavy metal đến từ Birmingham, Anh. Được thành lập vào năm 1968 bởi Ozzy Osbourne (hát chính), Tony Iommi (ghita), Terence"Geezer"Butler (ghita bass), and Bill Ward (trống), từ đó
**Matthew Charles Sanders** (sinh ngày 31 tháng 7 năm 1981), nổi bật với nghệ danh **M. Shadows**, là một ca sĩ và nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ. Anh là giọng ca chính
**Brian Elwin Haner Jr.** (sinh ngày 7 tháng 7 năm 1981), nổi bật hơn với nghệ danh **Synyster Gates** hay đơn giản là **Syn**, là một nghệ sĩ guitar và nhạc công người Mỹ, nổi
**Clifford Lee Burton** (10 tháng 2 năm 1962 – 27 tháng 9 năm 1986) là một nhạc công người Mỹ, được biết đến với vai trò tay bass trong ban nhạc thrash metal Metallica từ
**UnlimiteD** là một ban nhạc heavy metal người Việt Nam được thành lập vào năm 2003. Nhóm từng giành chiến thắng tại cuộc thi "Liên hoan các ban nhạc nhẹ toàn quốc (Superband 2007)" cũng