✨Hệ thống bảng xếp hạng FIFA giai đoạn 1999-2006

Hệ thống bảng xếp hạng FIFA giai đoạn 1999-2006

Hệ thống bảng xếp hạng FIFA là phương pháp tính toán được dùng trước đây bởi FIFA dành cho các đội tuyển quốc gia trong môn bóng đá. Hệ thống này được FIFA công bố vào năm 1999 như là bản mới nhất cập nhật thay cho bản trước đây, và được thay thế sau World Cup 2006 với một hệ thống đơn giản hơn.

Bảng xếp hạng về cơ bản giống với hệ thống dùng trong các liên đoàn, dù có quy mô lớn hơn và phức tạp hơn. Mỗi đội đều có khả năng giành được một số điểm trong mỗi trận đấu, mặc dù điểm thưởng trong các hệ thống liên đoàn chỉ phụ thuộc vào kết quả trận đấu, trong bảng xếp hạng FIFA có nhiều thứ phải đem vào tính toán, vì mọi đội bóng đều không chơi tất cả các trận đấu trên sân nhà và sân khách như hầu hết các giải liên đoàn. Sau khi cho điểm các đội được xếp hạng từ trên xuống theo số điểm.

Điểm được cho không chỉ phụ thuộc vào liệu đội đó có thắng, hoà hay thua mà còn phụ thuộc vào tính chất của trận đấu và sức mạnh của đối thủ. Một chiến thắng trước một đối thủ yếu sẽ nhận được số điểm ít hơn so với chiến thắng trước đội mạnh hơn. Điều này có nghĩa là một trận đấu sẽ không tính hai hay ba điểm cho một trận thắng và một điểm cho một trận hoà giống như chuẩn trong các giải đấu. Công thức sẽ phức tạp hơn do nó phải kết hợp cả những nhân tố đã kể trên.

Một trong những thay đổi mà được công bố khi sửa lại hệ thống xếp hạng vào năm 1999 được gán cho cái tên "scaling up", trong đó điểm cho một trận đấu sẽ có hệ số nhân xấp xỉ là 10, với các nhân tố khác thêm vào. Trong hệ thống giai đoạn 1999-2006 đội bóng có thể nhận được từ 0 đến 30 điểm một trận, và đội dẫn đầu bảng xếp hạng phải có số điểm cao hơn 800.

Tổng quát

Bảng xếp hạng được FIFA dự định để tạo một bảng xếp hạng công bằng cho các đội tuyển nam quốc gia thuộc các liên đoàn thành viên. Để xếp hạng tất cả các trận đấu, tỉ số và tính chất của trận đó được ghi lại và sử dụng trong các quy trình tính toán. Chỉ có các trận đấu của đội tuyển nam quốc gia được tính - tách riêng với hệ thống xếp hạng dành cho những nhóm đại diện khác, như đội tuyển nữ và tuyển trẻ quốc gia, ví dụ như bảng xếp hạng bóng đá nữ FIFA. FIFA không dùng cùng công thức để xác định bảng xếp hạng cho bóng đá nữ. Bảng xếp hạng bóng đá nữ dựa trên phiên bản đơn giản hoá của hệ số elo trong bóng đá.

Vì mục đích tính toán tính chất của trận đấu, mỗi trận được chia vào một trong sáu loại. Các giải đấu không được chứng thực nằm trong các liên đoàn châu lục của FIFA được coi là giao hữu. Mỗi loại có sức nặng riêng để xác định đúng tính chất. Các loại là:

Các trận thuộc vòng chung kết World Cup Các trận thuộc vòng loại World Cup Các trận thuộc FIFA Confederations Cup Các trận thuộc vòng chung kết châu lục Các trận thuộc vòng loại các giải châu lục Các trận giao hữu

Một chương trình được dùng để tính bảng xếp hạng. Điểm được cho dựa theo tiêu chuẩn sau:

Thắng, hoà hay thua Tính chất của trận đấu (nhân tố để nhân) *Sức mạnh khu vực (nhân tố để nhân)

Để cố thay đổi lợi thế khi thi đấu nhiều, chỉ có 7 trận thi đấu tốt nhất được tính, vì 7 là số trận trung bình một đội thi đấu trong một năm. Những trận đấu trước đó sẽ bị giảm tính chất trong công thức tính, để thưởng cho thành tích gần nhất của các đội cho nên công thức tính chỉ đem vào thành tích của đội trong vòng 8 năm.

Vào cuối năm FIFA trao 2 giải: Đội bóng của năm và Đội bóng tiến bộ nhất của năm.

Thắng, hoà hay thua

Trong bất kì hệ thống xếp hạng bóng đá nào, một trận thắng luôn đem lại nhiều điểm hơn so với một trận hoà hay một trận thua. Tuy nhiên, cho đến tháng 7 năm 2006, FIFA tin rằng điểm thưởng đơn giản vào cơ sở thắng, hoà hay thua sẽ không đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về một hệ thống xếp hạng tin cậy và chính xác.

Công thức tính đem vào sức mạnh cân xứng giữa hai đội. Điều này đem lại số điểm khi thắng một đội mạnh sẽ cao hơn khi vượt qua một đội yếu. Nó còn có thể làm cho các đội yếu kiếm điểm dù thất bại nếu thi đấu tốt (ví dụ ghi được bàn thắng, cách biệt thấp), nhưng đây là một số điểm nhỏ và không đạt nhiều điểm bằng đội thắng. Trong trường hợp phân định trận đấu bằng loạt sút penalty, đội thắng nhận được điểm bằng một chiến thắng. Đội thua nhận được trận hoà như bình thường.

Số bàn thắng

Khi tính điểm, số bàn thắng được xem xét và sự xếp điểm giữa 2 đội cũng bị ảnh hưởng bởi sức mạnh tương xứng giữa 2 đội (ví dụ xếp hạng càng thấp so với đối thủ, càng nhận được nhiều điểm khi ghi bàn), cũng như số điểm cho các bàn thắng được ghi, sẽ được khấu trừ so với tổng bàn thắng được công nhận. Để khuyến khích việc tấn công trong bóng đá, điểm thưởng cho bàn thắng ghi được sẽ được làm nặng hơn so với khấu trừ như kết quả công nhận, dù rằng đa số đội quan tâm về các giải đấu hay các trận sắp tới hơn là vị trí trên bảng xếp hạng. Khi trận đấu được phân định thắng thua bằng penalty, chỉ có bàn thắng ghi trong thời gian thi đấu chính thức được tính.

Để ngăn ngừa việc ghi bàn quá nhiều (overweighing) và một lượng điểm quá lớn nhận được trong những thắng lợi dễ dàng, nhiều sức nặng hơn được gắn liền với bàn thắng đầu cho mỗi đội, rồi dần dần giảm đối với những bàn tiếp theo. Điều này được thực hiện theo nguyên tắc bàn thắng ghi được là quan trọng nhưng nhân tố quan trọng nhất là thắng hay thua, như trong các trận tranh vô đich bình thường.

Trận sân nhà và sân khách

Để tính đến bất lợi thêm vào gặp phải khi thi đấu sân khách, một phần thưởng nhỏ 3 điểm mỗi trận được tặng cho đội khách. Đối với các giải ở nước trung lập, nhưng có chủ nhà, điểm thưởng sẽ không có.

Cấp bậc trận đấu

Tính quan trọng tương xứng của trận đấu còn được chú ý đến khi tính điểm. Phương pháp kết hợp điều này vào tổng điểm là nhân với số điểm của trận đấu có hệ số cho trước. Những nhân tố này là:

Nhân tố sức mạnh khu vực

Vì sự khác nhau đáng kể về sức mạnh các đội tuyển giữa các châu lục, nhân tố phụ này được thực hiện mỗi năm cho mỗi liên đoàn dựa vào thành tích của các đội trực thuộc liên đoàn trong các trận đấu và giải đấu liên lục địa. Không phải tất cả các trận đấu liên lục địa cũng được tính, chỉ những trận giữa 25% các đội mạnh nhất của mỗi liên đoàn, tối thiểu 5 đội một liên đoàn. Điều này ngăn chặn các lỗi mà được gây ra bởi việc tính cả các trận mà đội mạnh của liên đoàn này thắng đội yếu của một liên đoàn khác.

Nhân tố này được áp dụng trong việc tính nhân cho các đội cùng châu lục. Nếu hai đội thuộc hai châu lục khác nhau thi đấu thì hệ số để tính là trung bình cộng hệ số của hai châu lục đó. Từ 2005, hệ số về sức mạnh khu vực theo thứ tự giảm dần từ 1.00 cho các đội thuộc UEFA đến 0.93 cho các đội thuộc OFC.

Tóm tắt

Dựa vào các điều trên, tổng điểm dành cho một đội bóng sau trận đấu phụ thuộc vào công thức sau:

(w+g+a-c)\ s\ r=m\,

Trong đó: w = Điểm cho việc thắng, hoà hay thua g = Điểm cho bàn thắng ghi được c = Điểm cho những bàn được công nhận a = Điểm thưởng cho đội khách s = Nhân tố riêng cho cấp bậc trận đấu r = Nhân tố riêng cho sức mạnh khu vực *m = Điểm nhận được

Số điểm cho một trận thắng, hoà hay thua, cũng như số bàn thắng ghi được hoặc công nhận phụ thuộc vào sức mạnh của đối phương. Để không phạt những đội thiếu thành công quá khắt khe, số điểm âm sẽ làm tròn thành điểm 0.

Những ví dụ sau được dùng để chứng tỏ hệ thống hệ số Elo bóng đá cho một cách so sánh công bằng. Đây là những phép tính ví dụ để biểu thị công thức đang được dùng. Để cho ví dụ được đơn giản, giả sử có 3 đội bóng với trình độ khác nhau tham dự một giải đấu giao hữu nhỏ ở một quốc gia trung lập.

Ghi chú:không có điểm thưởng cho đội khách, cũng như nhân tố châu lục hay cấp bậc của trận được áp dụng.

Trước giải 3 đội có tổng điểm như sau:

Như ta thấy, đội A có vị trí xếp hạng cao nhất trong cả ba đội. Bảng sau cho biết sự phân chia điểm dựa theo ba kết quả có thể xảy ra của trận đấu giữa đội mạnh hơn A và đội yếu hơn B:

Ví dụ 1

Đội A gặp đội B (A mạnh hơn B)

Như trên bảng, trong trường hợp thắng 3:1, đội A nhận được 21 điểm, tuy nhiên, vì đội A là đội được xếp hạng cao hơn, đội thắng chỉ nhận được 17.4 điểm trong tổng điểm, và đội xếp hạng thấp hơn B vẫn kiếm được 1.7 điểm. Nếu đội B thắng 3:1, họ sẽ kiếm được 27.2 điểm, còn đội A họ sẽ nhận được điểm âm nhưng được làm tròn thành điểm 0. Nếu kết quả là hoà 2:2, vì xếp hạng thấp hơn, đội B sẽ nhận được nhiều điểm hơn đội A.

Ví dụ 2

Đội B gặp đội C (hai đội cùng trình độ)

Khi cách biệt về trình độ giữa hai đội ít thì sẽ cách biệt nhiều về điểm. Bảng sau cho ta thấy điểm được chia như thế nào khi có cùng kết quả như trên nhưng với hai đội có thứ hạng xấp xỉ bằng nhau, B và C, thi đấu:

So sánh với hệ số Elo

Lần sửa lại này của hệ thống bảng xếp hạng FIFA, giống như bản trước, đều gpj phải chỉ trích, và được so sánh với hệ số Elo bóng đá. Sau đây là sự so sánh để chỉ ra sự khác nhau trong cách hệ số Elo tác động với kết quả. Giả sử đội B hoà đội A và thua đội C bảng xếp hạng sẽ như sau: (làm tròn số thập phân)

Theo các chỉ trích, bảng xếp hạng FIFA đã chậm đáp lại việc sụt giảm đáng kể của đội B, bất chấp thắng lợi của đội C, khoảng cách giữa đội B với đội C vẫn là 10 điểm. Trong hệ số Elo, đội C đã vượt qua đội B. Cũng trong bảng xếp hạng FIFA, đội A cũng tăng thêm 8 điểm dù có trận hoà trước một đội yếu hơn nhiều. Trong hệ số Elo đội A bị trừ 4 điểm. Tuy nhiên trong hệ thống hệ số Elo, đội B, đội đã cố gắng kiếm được trận hoà trước đội mạnh hơn, bị tụt một bậc vì là kết quả nhỏ và đã bị trừ tổng công gần 10 điểm.

Những công thức thêm nữa

Để gia tăng độ chính xác và tính khách quan của bảng xếp hạng, sau bản sửa năm 1999, những công thức mới thêm vào được giới thiệu. Thứ nhất, số trận đấu một đội bóng thi đấu trong một khoảng thời gian nhất định được thêm vào. Thứ hai, ý nghĩa quan trọng gắn với trận đấu trước sẽ được hiểu khác hơn.

Số trận thi đấu

Để đảm bảo số giải đấu tăng lên trong một mùa không cho đội bóng quá nhiều điểm, bảng xếp hạng chỉ tính đến một kết quả có giới hạn. Số lượng này được xác định bằng cách chọn bao nhiêu giải đấu trong một năm mà một đội bóng tham gia trung bình. Điều này được đồng thuận ở ngưỡng 7-10 trận.

Để ngăn ngừa những đội có nhiều giải đấu hơn sẽ nhận được nhiều lợi thế, ban đầu chỉ tính 7 kết quả tốt nhất của mỗi đội. Để tính các kết quả thêm các kết quả đó sẽ được tính trung bình.

Ví dụ nếu một đội bóng thi đấu 12 trận:

7 kết quả tốt nhất của 12 trận sẽ được nhận biết Tổng điểm của 7 trận đó (X) Tổng điểm của tất cả 12 trận Kết quả sẽ chia cho 12 và nhân cho 7 (Y) Tổng điểm của 7 trận tốt nhất được cộng với kết quả trung bình (X+Y) Tổng (X+Y) chia cho 2 để được kết quả cuối cùng

Kết quả trước

Để đảm bảo bảng xếp hạng phản ánh tốt nhất thành tích thi đấu gần đây của một đội bóng, thành tích gần đây là quan trọng nhất; tuy nhiên, sự chú ý cũng được dành cho những kết quả của những năm trước. Kết quả từ những trận trước được cho đầy đủ trọng lượng, từ 1-2 năm về trước được 7 phần 8 giá trị thực, từ 2-3 năm được 3 phần 4 giá trị và cứ thế đến năm thứ 8 những kết quả đó sẽ bị loại ra khỏi sự tính toán.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hệ thống bảng xếp hạng FIFA** là phương pháp tính toán được dùng trước đây bởi FIFA dành cho các đội tuyển quốc gia trong môn bóng đá. Hệ thống này được FIFA công bố
**Giải bóng đá Ngoại hạng Anh** (tiếng Anh: **Premier League**), thường được biết đến với tên gọi **English Premier League** hoặc **EPL**, là hạng đấu cao nhất của hệ thống các giải bóng đá ở
**Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp** (**Super League 1**, ), hay còn gọi là **Super League Stoiximan** vì lý do tài trợ, là hạng đấu bóng đá chuyên nghiệp cao nhất ở
**Major League Soccer **(**MLS**) là giải đấu bóng đá nam chuyên nghiệp cấp cao nhất tại Hoa Kỳ và Canada được quản lý bởi Liên đoàn bóng đá Hoa Kỳ. MLS là một trong những
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil** (tiếng Bồ Đào Nha: _Seleção Brasileira de Futebol_, **SBF**) là đội tuyển bóng đá quốc gia do Liên đoàn bóng đá Brasil quản lý và đại diện Brasil
**Sir Alexander Chapman "Alex" Ferguson** CBE (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1941) là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Scotland. Trong vòng 27 năm (1986–2013), ông đã giúp Manchester
**Câu lạc bộ bóng đá Wrexham** là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở ở Wrexham, Wales. Thành lập năm 1864, đây là câu lạc bộ lâu đời nhất ở Wales
**Nigeria** (; phiên âm: "Ni-giê-ri-a"), tên chính thức là **Cộng hòa Liên bang Nigeria** (tiếng Anh: _Federal Republic of Nigeria_) là một quốc gia thuộc khu vực Tây Phi và cũng là nước đông dân
**Frank James Lampard** OBE (sinh ngày 20 tháng 6 năm 1978) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh và hiện là huấn luyện viên của câu lạc bộ bóng đá Conventry
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam** là đội tuyển bóng đá quốc gia đại diện cho Việt Nam thi đấu tại các giải đấu bóng đá quốc tế do Liên đoàn bóng đá
**Thierry Daniel Henry** (; sinh ngày 17 tháng 8 năm 1977) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá người Pháp hiện đang dẫn dắt đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia
**Francesco Totti** (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1976), là cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý, từng chơi cho câu lạc bộ Roma và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý. Vị
**David Villa Sánchez** (; sinh ngày 3 tháng 12 năm 1981) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha từng thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm. Được đánh
**Ole Gunnar Solskjær** (; sinh ngày 26 tháng 2 năm 1973) là một huấn luyện viên bóng đá người Na Uy và là cựu cầu thủ bóng đá thi đấu ở vị trí tiền đạo.
**Croatia** (: , phiên âm tiếng Việt hay dùng là "C'roát-chi-a" hoặc "Crô-a-ti-a"), tên chính thức **Cộng hòa Croatia** (tiếng Croatia: _Republika Hrvatska_ ) là một quốc gia nằm ở ngã tư của Trung và
**Diego Armando Maradona** (; 30 tháng 10 năm 196025 tháng 11 năm 2020), thường được biết đến với tên gọi đơn giản là **Diego Maradona** hay **Maradona**, là một cố cầu thủ kiêm huấn luyện
**Cúp bóng đá Nam Mỹ** (**CONMEBOL Copa América**, thường được gọi là **Copa América**), trước năm 1975 gọi là **Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ** (**_Campeonato Sudamericano de Fútbol_** trong tiếng Tây Ban Nha
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ** chính thức đại diện cho Bỉ tại các giải đấu bóng đá nam quốc tế kể từ trận đấu đầu tiên vào năm 1904. Đội tuyển thuộc thẩm
**Josep** **Guardiola Sala** (sinh ngày 18 tháng 1 năm 1971), hay thường gọi là **Pep Guardiola** (), là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha hiện
**Giải bóng đá vô địch quốc gia Tây Ban Nha** (**Campeonato Nacional de Liga de Primera División**), thường được biết đến là **Primera División** hoặc **La Liga**, và chính thức được gọi là **LALIGA EA
**Philippe Omar Troussier** (, tên khai sinh: **Philippe Bernard Victor Troussier**; sinh ngày 21 tháng 3 năm 1955) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá người Pháp. Sau khi trải qua
**Xbox network**, trước đây và hiện tại đôi khi được gọi là **Xbox Live**, là dịch vụ chơi game đa người chơi trực tuyến và phân phối nội dung số do Microsoft Gaming phát triển
**Serie A** (), tên chính thức là **Serie A Enilive** tại Ý và **Serie A Made in Italy** ở nước ngoài vì lý do tài trợ, là giải đấu chuyên nghiệp dành cho các câu
**Thụy Sĩ** (còn được viết là _Thụy Sỹ_), tên đầy đủ là **Liên bang Thụy Sĩ**, là một nước cộng hòa liên bang tại châu Âu. Quốc gia này gồm có 26 bang, và thành
**Eric Daniel Pierre Cantona** (; sinh ngày 24 tháng 5 năm 1966) là một nam diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp. Ông từng khoác
**Rutgerus Johannes Martinus van Nistelrooij** (; sinh ngày 1 tháng 7 năm 1976), được biết đến rộng rãi hơn với tên gọi **Ruud van Nistelrooy**, là một huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp và
**Fabio Capello** (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1946) là một huấn luyện viên bóng đá người Ý và cựu cầu thủ chuyên nghiệp. Ông từng là huấn luyện viên Đội tuyển bóng đá quốc
**Ronald Koeman** (; sinh ngày 21 tháng 3 năm 1963) là cựu cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Hà Lan. Ông đang là huấn luyện viên cho đội tuyển Hà Lan.Ông là
* **Gorillaz** là một dự án về âm nhạc và hình ảnh được thành lập năm 1998 tại Anh bởi Damon Albarn và Jamie Hewlett. Dự án bao gồm âm nhạc của chính Gorillaz và
**Harry Edward Kane** (sinh ngày 28 tháng 7 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm cho câu lạc bộ Bundesliga
**Petr Čech** (; sinh ngày 20 tháng 5 năm 1982) là cựu cầu thủ bóng đá người Cộng hòa Séc từng thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Chelsea và Arsenal.
**Diego Pablo Simeone** (sinh 28 tháng 4 năm 1970), có biệt danh **El Cholo**, là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá Argentina. Ông hiện là huấn luyện viên trưởng của câu
**Real Madrid Club de Fútbol** (), thường được gọi là **Real Madrid** hay đơn giản là **Real**, là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Tây Ban Nha có trụ sở tại Madrid.
**Câu lạc bộ bóng đá Manchester United** (tiếng Anh: _Manchester United Football Club_, hay ngắn gọn là **MU** hay **Man Utd**) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Old
**Fußball-Club Bayern München e. V.** (**FCB**, ), thường được biết đến là **Bayern München**, **Bayern Munich**, **FC Bayern** () hoặc đơn giản là **Bayern**, là một câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp có trụ
Đây là bài viết chi tiết về **lịch sử câu lạc bộ A.C. Milan** một trong những câu lạc bộ bóng đá thành công nhất thế giới. Ở đấu trường quốc tế, đội đã giành
**Football Club Internazionale Milano**, thường được gọi là **Internazionale** () hoặc đơn giản là **Inter**, và thường được gọi là **Inter Milan** ở các quốc gia nói tiếng Anh, là một câu lạc bộ bóng
**Câu lạc bộ bóng đá Chelsea** () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Anh có trụ sở tại Fulham, London. Được thành lập vào năm 1905, câu lạc bộ hiện đang
**Câu lạc bộ bóng đá Liverpool** () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Liverpool, Anh, hiện đang thi đấu ở Premier League, giải đấu hàng đầu của hệ
**Qatar** (phát âm: “Ca-ta”, , chuyển tự: _Qaṭar_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Qatar** (, chuyển tự: _Dawlat Qaṭar_) là quốc gia có chủ quyền tại châu Á, thuộc khu vực Tây Nam
**Câu lạc bộ bóng đá Barcelona** (), thường được biết đến với tên gọi tắt **Barcelona**, hay đơn giản là **Barça** (), là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại
**Andrea Pirlo** (; sinh ngày 19 tháng 5 năm 1979) là cựu cầu thủ bóng đá và là huấn luyện viên người Ý. Khi còn thi đấu anh thường ra sân với vai trò một
**Andrés Iniesta Luján** (; sinh ngày 11 tháng 5 năm 1984) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha từng thi đấu ở vị trí tiền vệ. Được đánh giá
**Zinedine Yazid Zidane** (sinh ngày 23 tháng 6 năm 1972), được biết đến phổ biến với biệt danh là **Zizou**, là huấn luyện viên bóng đá và cựu cầu thủ người Pháp thi đấu ở
**Gianluigi Buffon** (; sinh ngày 28 tháng 1 năm 1978), còn được gọi là **Gigi Buffon**, là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý, từng chơi ở vị trí thủ môn. Được
**Juventus Football Club** (từ , có nghĩa là _"tuổi trẻ"_; ), thường được gọi là **Juventus Turin**, **Juventus FC**, **Juventus**, **Juve** () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Ý có trụ
**Charlize Theron** (phát âm theo tiếng Anh kiểu Mỹ: ; phát âm theo tiếng Afrikaans: [ʃɐrˈlis tron]; sinh ngày 7 tháng 8 năm 1975) là một nữ diễn viên kiêm nhà làm phim người Mỹ
**Ruddy Lilian Thuram-Ulien** (; sinh ngày 1 tháng 1 năm 1972) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp từng chơi ở vị trí hậu vệ. Ông bắt đầu chơi bóng chuyên
**Edgar Steven Davids** (; sinh ngày 13 tháng 3 năm 1973 ở Paramaribo, Suriname) là một cựu cầu thủ và là huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan gốc Suriname. Sau khi
thumb|right|Biểu tượng cũ , còn gọi là **J1** hay vì lý do tài trợ, là hạng đấu cao nhất của . Được thành lập vào năm 1992, đây là một trong những giải đấu thành