✨Hasdai Crescas

Hasdai Crescas

Hasdai ben Yehuda Crescas (, ) (1340, Barcelona - 1410 (1411?), Zaragoza) là triết gia, nhà thần học, chính khách và lãnh đạo người Do Thái Tây Ban Nha vào thế kỷ 14. Là Rabbi Do Thái giáo thành Zaragoza nhưng ông còn nổi tiếng trong giới triết gia Kitô giáo châu Âu. Ông ủng hộ Do Thái giáo thuần túy không lệ thuộc vào lý thuyết Aristoteles và dựa nhiều hơn vào khía cạnh tinh thần và tình cảm của con người. Các nhà viết tiểu sử xếp ông là một trong những triết gia Do Thái và triết gia trung cổ nói chung nổi bật nhất. Những quan điểm mới của Crescas về tính vô hạn và tự nhiên, không gian và thời gian góp phần tạo nên cuộc cách mạng chống Aristoteles trong triết học tự nhiên, từ đó hình thành nên ngành vật lý mới - cơ học cổ điển.

Tiểu sử

trái|nhỏ|333x333px|Quang cảnh nhà hội trong khu Do Thái ở Barcelona, nơi sinh của Crescas. Hasdai ben Yehuda Crescas sinh khoảng năm 1340 trong một gia đình Do Thái truyền đời học giả tại ở Barcelona. Họ Crescas có từ nguyên khả dĩ trong nghĩa là lớn lên, tăng trưởng. Cha mẹ ông là Yehuda và Regina. Ngoài Hasdai, hai người còn có một con trai Shmuel và một con gái Venges. Trong lời nói đầu của Or Adonai (Ánh sáng của Chúa), Crescas viết về gia phả của mình: "Hasdai con trai Yehuda, con trai Hasdai, con trai Yehuda, con trai Hasdai, con trai Yehuda." Ở xứ Catalan, con trai sẽ lấy tên cha mình làm họ, nên cha Hasdai có tên Judah trong tiếng Do Thái và Crescas trong tiếng Catalunya. Ông nội Hasdai là rabbi nổi tiếng, bộ đáp từ của ông được Isaac ben Sheshet (Rivash) trích dẫn nhiều lần. Crescas thọ giáo rabbi Nissim ben Reuven (RaN) trứ danh trong đó có môn triết học. Bản thân RaN cũng nghiên cứu triết học và quen thuộc với những ý tưởng của Gersonides và William xứ Ockham. Crescas trở thành học trò yêu của RaN, được thầy coi gần như con trai, con trai của RaN là Reuven cũng gọi Crescas là anh trai. Một số sử gia cho rằng Reuven kết hôn với em gái Venges của Hasdai Crescas.

Tại Barcelona, Crescas và Rivash là bạn lâu năm, được gọi là "hai người vĩ đại đến từ Catalan", chính họ cũng gọi nhau bằng anh em trong thư từ. Rivash đã cùng Crescas viết chung về những vấn đề quan trọng như xung đột trong chức vụ rabbi tại Pháp. Hai người cùng nhau thành lập quỹ nghiên cứu kinh Torah và giúp đỡ những người Do Thái bị đàn áp ở Tây Ban Nha. Crescas giữ vị trí rabbi Do Thái Barcelona trong một thời gian. Ông kết hôn với Tolrana, có một con trai tên là Yehuda hoặc Crescas. Năm 1370, Hasdai Crescas tham gia cuộc thi giữa giới thi sĩ Do Thái Barcelona với Girona. Ông viết thể thơ selichot ( - Cầu xin Chúa tha thứ), trong đó cầu nguyện Chúa chiến thắng "kẻ thù nghịch" (cám dỗ hoặc vật chất).

phải|nhỏ|333x333px|"Người Do Thái rời khỏi hội đường", tranh vẽ [[Lễ Vượt Qua Haggadah khoảng năm 1350 ở Zaragoza hoặc Barcelona]] Crescas cũng quan tâm đến Kabbalah, có thể thấy được điều này trong các bản thảo Kabbalah ẩn danh hay như bài viết của chính ông về ý nghĩa lời cầu nguyện Kaddish.

Nhiều tư liệu cho rằng do âm mưu của những kẻ chống đối, Crescas phải ngồi tù một thời gian trong năm 1378 vì tội phạm thượng Bánh Thánh. Các tư liệu khác nói ông bị cầm tù 5 tháng trong năm 1373. Năm 1383, ông tham gia đàm phán với vua Pedro IV xứ Aragon về việc khôi phục quyền lợi cho người Do Thái. Sau khi Pedro IV băng hà, từ năm 1387 đến 1396, Crescas là quân sư cho vua Juan I và hoàng hậu Violante của Aragón, ông làm việc trong các cung điện tại Barcelona và Zaragoza. Hoàng hậu Violante sinh ra ở Pháp là người yêu thích và khuyến khích phát triển khoa học nghệ thuật, những lĩnh vực mà Crescas tham gia. Vua và hoàng hậu xưng Crescas là thầy và người Do Thái trong triều (). Rivash làm rabbi tại Zaragoza từ năm 1370 đến năm 1385 rồi chuyển đến Valencia, vua cử Crescas về làm rabbi Zaragoza. Tại đây, ông gặp gỡ thư ký của nhà vua là Bernat Metzhe đại diện của chủ nghĩa nhân văn sơ khai, tác giả bài thơ Lo somni. Crescas có thể chịu ảnh hưởng từ Metzhe. Ít nhất từ năm 1389 cho đến khi qua đời, Crescas chính thức là rabbi tại Zaragoza, triều đình coi ông là lãnh đạo toàn quyền quyền xét xử người Do Thái ở Aragón, có nguồn còn cho biết ông là rabbi của cả Aragón.

Năm 1391, do tuyên truyền bài Do Thái cũng như cái chết đột ngột của vua Castile, Tây Ban Nha diễn ra làn sóng tàn sát. Toàn bộ cộng đồng Do Thái không còn được phép tồn tại, hoặc chọn rửa tội để cải đạo hoặc chết. Đa số người Do Thái chọn cái chết để giữ đức tin, một số nhỏ thoát được và hầu hết buộc phải chấp nhận cải đạo. Ở các nơi khác, người Do Thái cố gắng với hy vọng nhỏ nhoi để việc này không lan đến, như ở Barcelona dân Do Thái chiếm chưa đến 10% dân số. Đã có những trường hợp tự sát và hoặc tự ra tay giết toàn bộ người trong nhà chỉ để tránh rửa tội. Làn sóng tàn sát lan sang Aragón. Vua Juan I ở Zaragoza cấm không được thực thi việc này, nhưng tình hình ở Barcelona thì không suôn sẻ. Bất chấp vua Juan I ra chiếu thư chống lại việc giết chóc, trong đó đặc biệt nhấn mạnh phải bảo vệ "người Do Thái trong triều đình và quân sư Crescas", con trai duy nhất khi ấy của Crescas đã tử đạo ở Barcelona ở tuổi hai mươi, ngay trước hôn lễ dự kiến. Dù có thể chỉ là tin đồn nhưng thực tế là sau khi Crescas qua đời, người Do Thái ở Zaragoza vẫn được bình yên cho đến khi bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha năm 1492. Sau đó, khu Do Thái cổ thời Crescas bị phá đi xây lại hoàn toàn, chỉ giữ lại một số đường phố cũ và cũng bị đổi tên khác đi. Theo như tư liệu còn lại, Crescas sống tại khu Do Thái cổ trên đường Torneros (), nay là đường Verónica.

Tập tin:Calle Mateo Flandro.jpg|alt=|Đường phố và "Nhà hội của bảy con phố" Tập tin:Casa de los Morlanes (detalle Menorah).jpg|alt=|Chi tiết mặt tiền với các biểu tượng Do Thái Tập tin:Judería de Zaragoza.svg|alt=Старый еврейский квартал (оранжевого цвета), и новый (фиолетовый) на схеме Сарагосы|Khu Do Thái cổ (màu cam) và khu mới (màu tím) trên bản đồ Zaragoza

Tác phẩm

Or Adonai

Nội dung

Tác phẩm chính của Hasdai Crescas là Or Adonai ( - Ánh sáng của Chúa). Ông bắt đầu viết muộn nhất là từ năm 1405 và hoàn thành vào mùa đông 1410-1411 cũng là năm cuối đời. Tác phẩm là sự trình bày tín điều Do Thái giáo một cách hệ thống, bên cạnh những khám phá, lập luận nguyên bản và sâu sắc, thuần túy triết học hơn bất kỳ luận thuyết Do Thái Trung cổ nào khác. Tác phẩm này nhằm chống lại nền tảng triết học Aristoteles, không chỉ từ quan điểm tôn giáo mà còn từ quan điểm triết học; như trong lời nói đầu:

Nguyên nhân sai sót và nhầm lẫn là do dựa vào lời và các bằng cớ của người Hy Lạp [Aristoteles], và ta thấy phải chỉ ra sai lầm của những bằng cớ này... cũng là [bằng cớ] mà tôn sư chúng ta [Maimonides] đã dựa vào... cho tất cả nhận ra sự nhầm lẫn về nghi vấn đức tin chỉ để phá bỏ Torah.

Crescas trình bày ý tưởng mình với phong cách giản dị với đặc trưng ngắn gọn khúc chiết, bất chấp những giới hạn thuật ngữ triết học trong tiếng Hebrew trung cổ. Ông sử dụng vũ khí riêng là phân tích logic và chứng thực để chống lại tư tưởng Aristoteles. Sự chỉ trích Aristoteles của Crescas có ý nghĩa lịch sử; bảo vệ quyền tự do trong việc giải kinh Torah, đồng thời ủng hộ việc giải phóng triết học và khoa học khỏi những dạy dỗ và nhận thức giáo điều của Aristoteles.

Tác phẩm Or Adonai được chia làm bốn sách, với những chủ đề sau:

  • bối cảnh hay nguồn cội () Torah;
  • căn bản () Torah (các thuộc tính của Chúa và mối liên hệ của Ngài với thế gian);
  • các bắt buộc khác về đức tin quy định theo Torah;
  • những ý tưởng hoặc suy đoán mang tính tùy chọn.

Trong đó, sách đầu tiên nổi bật nhất về mặt triết học. Tiếp nối Maimonides, Crescas liệt kê những cội nguồn trong Torah về sự tồn tại, tính nhất thể và toàn thể của Chúa. Crescas dùng ba phần trong sách để bác bỏ tư tưởng Aristoteles cũng như lời dạy của chính Maimonides, đồng thời vạch ra phát triển triết lý của mình. Sách thứ hai trình bày nền tảng để hiểu kinh Torah, bàn về bản chất, thuộc tính của Chúa và mối liên hệ giữa Ngài với thế giới vật chất. Sách thứ ba dùng để diễn giải chân lý, Torah trở thành lời dạy dỗ hướng dẫn đáng tin. Quyển bốn là những phát ngôn để độc giả tự suy ngẫm rồi đưa đến quyết định chấp nhận hay khước từ.

Crescas lên ý tưởng để viết phần tiếp theo cho Or Adonai trong toàn bộ Ner Alohim nhưng lại qua đời đột ngột. Một phần trong lời tựa Or Adonai cũng được Crescas dùng làm tựa phần tiếp theo phê bình Maimonides về Halacha. Như thường lệ, Crescas chỉ trích Maimonides không dựa trên nguồn Torah, không những thế còn phê bình tham vọng mô tả toàn bộ luật (truyền khẩu) mà trong tương lai sẽ còn thay đổi, và không hề có nền tảng cho các điều răn.

Trong trước tác Do Thái trung cổ, Crescas được Josef Albo, Abrabanel và những người khác trích dẫn. Nhà nghiên cứu Harry Wolfson coi Crescas là người sáng lập triết học phê bình. Giáo sư Warren Harvey mô tả Maimonides là triết gia Do Thái trung cổ quan trọng nhất còn Crescas là nhà phê bình Maimonides quan trọng nhất.

Ấn bản

trái|nhỏ|215x215px|Trang tựa Or Adonai, ấn bản năm 1555, [[Ferrara]] phải|nhỏ|210x210px|Trang tựa Or Adonai, ấn bản năm 1905, [[Vilnius]] Tổng số không dưới 11 bản thảo được tìm thấy ở Paris, Viên và Firenze, một số do học trò chép lại. Sách được in lần đầu tại Ferrara năm 1555, in lại tại Viên năm 1859, Johannesburg năm 1861, Vilnius năm 1905. Văn phong Crescas rất ngắn gọn, có những thiếu sót đáng kể khi dẫn lại ý kiến tác giả khác. Các ấn bản đều có nhiều lỗi, nên khi thực hiện ấn bản từng chương riêng rẽ năm 1980, vấn đề cơ bản là phải khôi phục văn bản gốc cũng như làm rõ các thuật ngữ Do Thái trung cổ khó. Bản hiện tại do rabbi Shlomo Fischer soạn ra cùng bảng chú giải thuật ngữ và ghi chú. Giáo sư Warren Zeeb Harvey cho ra đời ấn bản phê bình khoa học đầu tiên cho Or Adonai.

Tác phẩm khác

Thi nguyện

Crescas sáng tác bài thơ này theo kiểu selichot ( - sự tha thứ) trong một cuộc thi năm 1370. Trong đó, Crescas cầu xin Chúa chiến thắng "kẻ thù nghịch" (hữu hình hoặc vô hình). Bài thơ gán lực lượng "thù địch" này ở dạng thức giống cái, còn tâm trí (đại diện cho phẩm chất tích cực tốt đẹp) là giống đực. Crescas giải thích lấy nguyên liệu thơ văn này từ Platon và Maimonides. Đối với ông, Platon là "người đứng đầu các soạn giả ngụ ngôn" còn Maimonides là "sự tô vẽ các nhà thông thái".

Bài luận Kabbalah về ý nghĩa lời nguyện Kaddish

Có thể Crescas viết khi đang giảng dạy tại Barcelona, phần lời tựa có thể do một học trò viết thêm vào. Bài luận rút ra sự tương đồng giữa mười lời nguyện Kaddish với mười Sephirot. Trước đó, những người theo thuyết Kabbalah trường phái Girona cũng phát triển ý tưởng tương tự.

Luận chiến chống Kitô giáo

Nhằm chống lại rất nhiều tác phẩm Kitô giáo dành chbo người Do Thái và người cải đạo, Crescas viết cuốn Bác bỏ các nguyên tắc Kitô giáo bằng tiếng Catalunya (1397-1398). Tác phẩm hiện nay chỉ còn sót lại một phần trong cuốn Bittul ikarei ha-notzrim () năm 1451. Crescas tin rằng tôn giáo không nên buộc mọi người tin vào những điều phi logic và ông chỉ trích Kitô giáo từ lập trường triết học và logic chứ không theo cách diễn giải Kinh thánh. Trong lời nói đầu, Crescas viết rằng nhiều người đáng kính và quan trọng đã yêu cầu ông viết bài này. Một số sử gia còn cho rằng trong đó có cả những Kitô hữu muốn hiểu hơn về Do Thái giáo. Sách có 10 chương, mỗi chương phân tích một triết thuyết Kitô giáo.

nhỏ|phải|Tranh biện Kitô giáo và Do Thái giáo, bản khắc của Johann von Armssheim, 1483

Bài giảng lễ Vượt Qua

Năm 1988, Aviezer Ravitzky (אביעזר רביצקי) xuất bản ấn phẩm học thuật và phân tích chi tiết Bài giảng lễ Vượt Qua của Crescas được tìm thấy trong hai bản thảo tiếng Hebrew. Bài giảng đáng giá về mặt khoa học vì được viết trước Or Adonai nên có thể nhìn ra được quan điểm Crescas biến đổi ra sao, cũng như quan điểm đó ảnh hưởng đến từng giai đoạn cuộc đời ông. Ví dụ, ảnh hưởng của Abner thành Burgos chỉ có thể nhận thấy trong giai đoạn sau cuộc đời Crescas.

Biên niên sử pogrom 1391

Tác phẩm được viết dưới dạng một bức thư gửi cho dân Do Thái ở Avignon với phong cách hướng thượng ẩn chứa bên trong nhiều ám chỉ đến các sách Kinh Thánh, đặc biệt là Sách Ca Thương. Thư đề ngày 19 tháng 10 năm 1391 (ngày 20 tháng Cheshvan năm 5151 lịch Do Thái) mô tả làn sóng pogrom nổ ra ở Sevilla ngày 4 tháng 6 năm ấy (ngày 1 tháng Tammuz). Crescas không đi sâu vào nguyên nhân sự kiện bi thảm này như là do tổng phó tế Ferrando Martinez kích động và triều đình Castile bạc nhược không kiểm soát được, mà đề cập rằng chính quyền Aragón đã chống lại việc thực thi pogrom. Thư trình bày chi tiết địa điểm và số lượng người chết, do bị xử tử hoặc tự sát để không bị ép rửa tội cải đạo. Crescas đặc biệt chú ý đến những việc xảy ra tại Toledo và Barcelona. Ở Toledo, con cháu của nhà giải kinh Talmud nổi tiếng Asher ben Yechiel (Rosh) đã chết, chắt của ROSH đã tự tay giết vợ con. Chính quyền cố gắng ngăn chặn pogrom và bắt giữ một số kẻ chủ mưu, nhưng đám đông cuồng loạn đã cướp ngục thả chúng ra để tấn công dân Do Thái. Người Do Thái phải tự co cụm nhốt mình trong các lâu đài (tháp) để trốn tránh. Dân Do Thái cũng định dùng vũ trang phản ứng lại, nhưng kẻ thù đông gấp nhiều lần và có đầy đủ vũ khí hơn. Người Do Thái kẻ bị giết, kẻ gieo mình hoặc dùng gươm tự vẫn, hoặc đơn giản là đi ra đường để bị giết. Con trai 20 tuổi Crescas đã chết. Trí tuệ không đảm bảo được linh hồn bất tử, nhưng một số hiểu biết là cần thiết để làm nền tảng cho Kinh Torah và những điều răn trong đó. Ngoài ra, Crescas cũng khước từ thuyết luân hồi của Kabbalah vì ông chỉ tiếp thu một số ý tưởng riêng biệt chứ không phải toàn bộ hệ tư tưởng Kabbalah.

Điểm thú vị là cách Crescas giải thích giới luật đầu tiên. Trái ngược cách hiểu thông thường của Maimonides, Crescas dứt khoát phản đối việc điều răn chỉ tồn tại trong phạm trù đức tin. Ông chứng minh theo ba cách (logic, halakha, tâm lý học) rằng không có giới luật nào bắt phải tin cả, kể cả trên tất cả là phải tin vào Chúa. Crescas cho rằng giới luật chỉ tác động lên hành động. Quan điểm này cộng hưởng mạnh cho lời dạy dỗ của Moses Mendelssohn. Tác phẩm chính cuối cùng của Mendelssohn là Jerusalem đã chỉ trích Maimonides rời bỏ truyền thống Do Thái cổ là không biên soạn tín điều. Mendelssohn đã dùng đến lập luận Crescas, Albo và những người khác để viết. Vậy có thể coi Crescas là người đặt nền móng cho ý tưởng về giới luật chỉ tồn tại trên phương diện hành động (Chính hành Do Thái). Một số nhà tư tưởng hiện đại như Yeshayahu Leibowitz cũng ủng hộ thuyết này và coi Crescas như một triết gia tôn giáo vĩ đại.

Nan đề về thuộc tính Thiên Chúa

Thời Trung cổ thường đưa ra tranh luận những nan đề liệu Chúa có những thuộc tính (theo góc nhìn con người) tích cực hay không, cụ thể là làm thế nào để hiểu "thương xót", "nhân từ" và những từ tương tự trong mối liên hệ với Chúa. Maimonides có quan điểm cực đoan về vấn đề này. Tất cả những từ nào áp dụng cho Chúa chỉ được coi là "tình cờ" thuần túy đồng âm nhưng khác nghĩa với từ dùng cho đối tượng khác. Những chỗ nào Kinh Thánh nói về Chúa thì đều mang nghĩa ẩn dụ, không hề và không thể có sự tương đồng hay giống nhau giữa Chúa với bất kỳ đối tượng nào khác.

Nhiều nhà tư tưởng khác không đến mức như vậy. Gersonides tin rằng có mối liên hệ nhất định giữa những từ ngữ dành cho Chúa với khi nói về một đối tượng khác. Nghĩa dành cho Chúa chân chính là nghĩa gốc, còn khi nói về đối tượng khác thì đã bị bóp méo và đơn giản hóa đi.

Lúc đầu Crescas thống nhất ý tưởng với Maimonides và chỉ trích Gersonides gay gắt. Một thời gian sau, bị ảnh hưởng từ các học giả Latinh, rồi đến Kabbalah, đặc biệt là Azriel xứ Girona, Crescas chuyển hướng sang Gersonides:

Tuy nhiên, ý nghĩa chung của từ [tồn tại] là đối tượng không vắng mặt thuộc tồn tính tồn tại, nên nó được nói về Chúa <đáng phước hạnh thay Ngài> và các đối tượng khác mà không bị vắng mặt thuộc tính tồn tại. Chỉ (khác) nói về Chúa theo nghĩa tiên nghiệm, còn đối tượng khác thì là hậu nghiệm. Như vậy, từ "tồn tại" được chỉ về Chúa và (cả) những đối tượng khác không phải là ngụy biện, mà như câu chữ nước đôi.

Sau đó, Crescas mở rộng tiếp, khẳng định sự tồn tại những thuộc tính cốt tủy () được xác định qua mười sephirot.

Lập trường này rất gần với tư tưởng Kitô giáo, đến nỗi ngay cả khi chỉ trích Kabbalah, Rivash cũng so sánh đức tin "một số triết gia" vào mười thuộc tính Sephirot với tín lý Ba Ngôi trong Kitô giáo. Shem Tov Ben Yosef Ibn Shem Tov là dịch giả tác phẩm Bác bỏ nền tảng đức tin Kitô giáo () cũng ghi nhận tương tự khi nói về việc Crescas phân tích tín lý Ba Ngôi. Crescas duy trì được tư tưởng chính thống về tính hiệp nhất và phi vật chất của Thiên Chúa. Crescas minh họa bằng hình ảnh lửa và than lấy trong sách Sefer Yetzirah (Tạo vật): lửa (ví với thuộc tính) không tồn tại nếu không có than (ví như chất), nhưng lửa không phải là than. Kết quả là, Crescas tin rằng Chúa siêu việt và không thể biết thấu được, nhưng nội tại Ngài có các thuộc tính cốt yếu (sephirot). Nhà Kabbalah nổi tiếng sau này Meir ibn Gabbai đánh giá cao những mô tả về sephirot của Crescas.

Siêu hình học

Bằng chứng Thiên Chúa hiện hữu

Crescas dẫn lại bằng chứng vũ trụ học của Maimonides về sự tồn tại của Thiên Chúa xuất phát từ chuyển động quay của thiên cầu, nhưng cũng bác bỏ nhiều điểm.

Nghiên cứu bằng chứng của Giảng sư về sự tồn tại của Chúa, thể hiệp nhất của Ngài, rằng Ngài là vô hình nhưng không phải là một thế lực trong vật thể. Chúng ta sẽ xem xét từ hai quan điểm. Thứ nhất, Maimonides dựa vào nhiều điều còn mơ hồ làm tiền đề. Thứ hai là liệu chứng minh của Maimonides có chắc chắn hay không, ngay cả khi những tiền đề này được chứng minh... Vì lập luận xác lập tính đúng đắn của những bằng chứng này là sai, nên toàn bộ bằng chứng của Maimonides là không hợp lệ. Với quan điểm thứ hai, chứng minh cũng bị bác bỏ vì hai lý do...

Từ đó, ông đi đến kết luận rằng tôn giáo không dựa trên khoa học thực nghiệm, nhưng khoa học không mâu thuẫn với tôn giáo, vì chân lý không thể tự mâu thuẫn với nhau.

Crescas cũng đặt nghi vấn về bằng chứng siêu hình của Maimonides, đặc biệt về tiên đề bất khả của chuỗi nhân quả vô tận. Thay vào đó, Crescas đưa ra bằng chứng siêu hình của riêng mình:

Nguyên nhân và kết quả có thể vô hạn hoặc hữu hạn, nhưng kết luận chắc chắn rằng phải có một số nguyên nhân chung của tất cả, và điều này cần đến sự tồn tại hơn là không tồn tại. Đây là lý do cho cả khối tổng thể toàn bộ, trong đó sự tồn tại vượt trên không tồn tại, đó chính là Thiên Chúa, <đáng phước hạnh thay Ngài>. Do đó, sự tồn tại của Chúa đã được chứng minh không chút nghi ngờ gì nữa.

Từ đó, Crescas thừa nhận Thiên Chúa tồn tại và có thể chứng minh điều này một cách hợp lý, nhưng không thể biết được ý chí và thuộc tính của Ngài.

Thiên Chúa yêu thương và vui mừng

Maimonides dùng lại công thức Aristoteles cho rằng Thượng Đế là một lý trí tự nhận thức. Gersonides hoàn toàn ủng hộ luận điểm này. Do đó, những triết gia tôn giáo trước Crescas tin rằng Thiên Chúa là lý trí thuần túy.

Mặt khác, những người ủng hộ Aristoteles cũng gán thuộc tính vui mừng cho Chúa. Chẳng hạn, Gersonides thậm chí còn thêm sự vui mừng thiên thượng vào danh sách năm nền tảng đức tin.

Crescas chỉ ra rằng triết học Aristoteles chứa đựng mâu thuẫn khi coi Thượng Đế chỉ là trí tuệ thuần túy, không thể lệ thuộc vào cảm xúc. Còn theo Crescas, Thiên Chúa không phải trí tuệ thuần túy, mà thực sự có niềm vui, nhưng không phải cảm xúc vui mừng trong các tạo vật như con người mà thể hiện qua hành động. Nói cách khác, sự vui mừng trong Chúa là hành động của Ngài, chủ yếu trong hai việc chính là tạo ra và duy trì thế giới. Hơn nữa, Ngài lấp đầy thế giới bằng tình yêu thương khiến cho nó trở nên hài hòa. Một số nhà nghiên cứu hiện đại nhìn nhận đây là ý nghĩa chính của Crescas trong luận điểm này.

Công thức phước lành mà các hiền nhân đặt ra: "trong sự hiện diện có sự vui mừng" phải được hiểu theo nghĩa đen, chứ không phải ngụ ý... Vì sự vui mừng là thuộc tính phổ quát của Thiên Chúa nên từ đó đổ ra sự tốt lành, các tạo vật nhận được sự tốt lành này. Do đó, sự vui mừng đích thực là "trong sự hiện diện của Ngài, ấy có vui mừng". Nơi Ngài ngự () tức là vương quốc thiên đàng (), nơi các sinh linh (linh hồn)() cư ngụ.

Vì tình yêu thương và sự vui mừng có địa vị bản thể cao như vậy, và vì con người được dựng nên giống Chúa, nên Crescas đề cao những cảm xúc này ở con người, tình yêu thương mới là mục tiêu tối thượng của con người. Trong quá trình suy tư, ông cũng giải quyết được nan đề báo ứng của đức tin. Theo Crescas, một người không tự do lựa chọn đức tin mà bị lý trí tác động, vậy thì làm sao đức tin có thể dẫn đến hình phạt hay phần thưởng được? Câu trả lời không nằm ở bản thân đức tin, mà chính do những cảm xúc đi kèm mới dẫn đến báo ứng khác nhau. Các kết quả khác nhau không phải do tin gì mà do cảm xúc khi tin mang lại. Hình ảnh này khẳng định tính ưu việt của ý chí so với lý trí, điều này có thể chịu ảnh hưởng từ John Duns Scotus.

Thuyết tất định và quyền tự do lựa chọn

nhỏ|285x285px|John Duns Scotus Crescas có quan điểm cấp tiến khá đặc biệt về vấn đề ý chí tự do có khả năng tương thích với sự toàn tri của Đấng toàn năng nắm giữ tương lai. Trước đó tại Tel Aviv cũng đã có một đường phố mang tên ông.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hasdai ben Yehuda Crescas** (, ) (1340, Barcelona - 1410 (1411?), Zaragoza) là triết gia, nhà thần học, chính khách và lãnh đạo người Do Thái Tây Ban Nha vào thế kỷ 14. Là Rabbi
**Do Thái giáo** hay **đạo Do Thái** (tiếng Hebrew: יהודה, _Yehudah_, "Judah" theo tiếng Latin và tiếng Hy Lạp) là một tôn giáo đơn thần cổ đại thuộc nhóm các tôn giáo khởi nguồn từ
Một sự thể đồ hoạ của [[thông điệp Arecibo – nỗ lực đầu tiên của con người nhằm sử dụng sóng radio để thông báo sự hiện diện của mình tới các nền văn minh