✨Giới hạn Bekenstein

Giới hạn Bekenstein

Trong vật lý, giới hạn Bekenstein (đặt tên theo Jacob Bekenstein) là một chặn trên cho entropy , hay thông tin , có thể được chứa trong một vùng không gian hữu hạn với một lượng năng lượng hữu hạn – hay ngược lại, lượng thông tin lớn nhất cần dùng để mô tả hoàn toàn một hệ vật tới tận mức độ lượng tử. Từ đó có thể suy ra rằng lượng thông tin của một hệ vật, hay lượng thông tin cần để mô tả hệ vật đó hoàn hảo, là hữu hạn nếu vùng không gian và năng lượng là hữu hạn. Trong khoa học máy tính, điều này dẫn đến có một mức xử lý thông tin tối đa (giới hạn Bremermann) cho một hệ vật với kích thước và năng lượng hữu hạn, và một chiếc máy Turing với hữu hạn chiều vật lý và bộ nhớ vô hạn là không thể tồn tại.

Công thức

Dạng bất đẳng thức thường thấy của giới hạn này được Jacob Bekenstein tìm ra là Sử dụng sự tương đương khối lượng–năng lượng, giới hạn thông tin trên có thể viết lại thành

:I \leq \frac{2 \pi c R M}{\hbar \ln 2} \approx 2.5769082 \times 10^{43}\ \frac{\text{bit{\text{kg}\cdot\text{m \cdot M\cdot R,

trong đó là khối lượng, còn là bán kính của hệ.

Nguồn gốc

Bekenstein tìm được chặn trên này từ suy luận heuristic liên quan đến lỗ đen. Nếu một hệ tồn tại và vi phạm giới hạn này, tức có quá nhiều entropy, Bekenstein chỉ ra rằng có thể vi phạm định luật hai của nhiệt động lực học bằng cách cho nó vào trong một lỗ đen. Năm 1995, nhà vật lý Ted Jacobson chỉ ra rằng phương trình trường Einstein (tức thuyết tương đối rộng) có thể được suy ra bằng cách giả sử giới hạn Bekenstein và các định luật nhiệt động lực học là đúng. Tuy một số lập luận đã được đưa ra rằng một giới hạn như thế phải tồn tại để các định luật nhiệt động lực học và thuyết tương đối rộng đều phù hợp, phát biểu giới hạn chính xác vẫn là vấn đề gây tranh cãi cho đến khi Casini giải quyết nó năm 2008.

Chứng minh bằng lý thuyết trường lượng tử

Một chứng minh của giới hạn Bekenstein trong khuôn khổ của lý thuyết trường lượng tử được đưa ra năm 2008 bởi Horacio Casini. Một trong những sáng kiến quan trọng của chứng minh này là tìm được biểu diễn phù hợp cho các đại lượng ở hai bên bất đẳng thức.

Định nghĩa thông thường của entropy và mật độ năng lượng trong lý thuyết trường lượng tử gặp vấn đề phân kỳ tử ngoại. Trong trường hợp của giới hạn Bekenstein, phân kỳ tử ngoại có thể được giải quyết bằng cách lấy hiệu giữa đại lượng tính được trong trạng thái kích thích và trong trạng thái chân không. Ví dụ, với một vùng không gian , Casini định nghĩa entropy ở vế trái của giới hạn Bekenstein là

: S_V = S(\rho_V) - S(\rho^0_V) = - \mathrm{tr}(\rho_V \log \rho_V) + \mathrm{tr}(\rho_V^0 \log \rho_V^0)

trong đó là entropy von Neumann của ma trận mật độ thu gọn của trong trạng thái kích thích , và là entropy Von Newmann cho trạng thái chân không .

Ở vế phải của giới hạn Bekenstein, một phần khó là lý luận chặt chẽ cho đại lượng , trong đó là độ dài đặc trưng của hệ và là năng lượgn đặc trưng. Tích này có cùng đơn vị với tập sinh của phép gia tăng Lorentz, và một khái niệm tương tự với gia tăng trong trường hợp này là Hamiltonian môđun của trạng thái chân không . Casini định nghĩa vế phải của giới hạn Bekenstein là hiệu giữa giá trị kỳ vọng của Hamiltonian môđun trong trạng thái kích thích và trong trạng thái chân không,

: K_V = \mathrm{tr}(K \rho_V) - \mathrm{tr}(K \rho^0_V).

Với những định nghĩa này, giới hạn trở thành

: S_V \leq K_V,

và có thể được biến đổi thành

: \mathrm{tr}(\rho_V \log \rho_V) - \mathrm{tr}(\rho_V \log \rho_V^0) \geq 0.

Đây là phát biểu rằng entropy tương đối luôn dương, chứng minh giới hạn Bekenstein.

Ví dụ

Lỗ đen

Entropy rìa Bekenstein–Hawking của lỗ đen ba chiều bằng đúng giá trị giới hạn

: r_s = \frac{2 G M}{c^2}, : A = 4 \pi r_s^2 = \frac{16 \pi G^2 M^2}{c^4}, : l_P^2 = \hbar G/c^3, : S = \frac{kA}{4 l_P^2} = \frac{4 \pi k G M^2}{\hbar c},

trong đó là hằng số Boltzmann, là diện tích hai chiều của chân trời sự kiện của lỗ đen tính bằng đơn vị diện tích Planck, l_P^2 = \hbar G/c^3.

Giới hạn này liên quan mật thiết đến nhiệt động lực học lỗ đen, nguyên lý toàn ảnh, và giới hạn toàn ảnh Bousso của hấp dẫn lượng tử, và có thể được suy ra từ dạng mạnh hơn của giới hạn Bousso.

Não người

Não người trung bình nặng khoảng 1.5 kg và có thể tích là 1260 cm. Nếu ta xấp xỉ bộ não bằng một hình cầu, thì bán kính của nó sẽ vào khoảng

Giới hạn thông tin Bekenstein khi ấy sẽ vào khoảng 2.6 bit, lượng thông tin tối đa cần dùng để mô phỏng hoàn hảo bộ não con người xuống mức dộ lượng tử. Điều này nghĩa là số trạng thái lượng tử của não người không vượt quá \approx 10^{7.8 \times 10^{41.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Trong vật lý, **giới hạn Bekenstein** (đặt tên theo Jacob Bekenstein) là một chặn trên cho entropy , hay thông tin , có thể được chứa trong một vùng không gian hữu hạn với một
**Jacob David Bekenstein** ( 1 tháng 5 năm 1947 – 16 tháng 8 năm 2015) là một nhà vật lý lý thuyết người Israel–Mỹ sinh tại Mexico, người đã có những đóng góp quan trọng
Ảnh minh họa của nghệ sĩ về hai [[lỗ đen đang hợp nhất, một quá trình mà các định luật nhiệt động lực học vẫn giữ]] Trong vật lý, **nhiệt động lực học lỗ đen**
[[Đĩa bồi tụ bao quanh lỗ đen siêu khối lượng ở trung tâm của thiên hà elip khổng lồ Messier 87 trong chòm sao Xử Nữ. Khối lượng của nó khoảng 7 tỉ lần khối
nhỏ|Mã [[ASCII cho từ " Wikipedia " được biểu thị dưới dạng nhị phân, hệ thống số được sử dụng phổ biến nhất để mã hóa thông tin máy tính văn bản]] **Thông tin** có
nhỏ|Lực hấp dẫn làm các [[hành tinh quay quanh Mặt Trời.]] Trong vật lý học, **lực hấp dẫn**, hay chính xác hơn là **tương tác hấp dẫn,** là một hiện tượng tự nhiên mà tất