✨Giấy

Giấy

nhỏ|phải|Một tờ giấy vẽ Giấy là một loại vật liệu mỏng được làm từ chất xơ dày từ vài trăm µm cho đến vài cm, thường có nguồn gốc thực vật, và được tạo thành mạng lưới bởi lực liên kết hiđrô không có chất kết dính. Thông thường giấy được sử dụng dưới dạng những lớp mỏng nhưng cũng có thể dùng để tạo hình các vật lớn (papier-mâché). Trên nguyên tắc giấy được sản xuất từ bột gỗ hay bột giấy. Loại giấy quan trọng nhất về văn hóa là giấy viết. Bên cạnh đó giấy được sử dụng làm vật liệu bao bì, trong nội thất như giấy dán tường, giấy vệ sinh hay trong thủ công trang trí, đặc biệt là ở Nhật và Trung Quốc.

Trước khi phát minh ra giấy, con người đã ghi chép lại các văn kiện là các hình vẽ trong các hang động hoặc khắc lên các tấm bia bằng đất sét, và sau đó nữa là người ta dùng da để lưu trữ các văn kiện. Kể từ khi người Trung Quốc phát minh ra giấy vào năm 105, giấy đã bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và mãi cho đến năm 750, kỹ thuật sản xuất giấy mới lan truyền đến phương Tây thông qua Samarkand bởi các tù binh người Trung Quốc bị bắt trong Trận Đát La Tư giữa nhà Đường và nhà Abbas của người Hồi giáo. Giấy được mang đến châu Âu từ thế kỷ thứ 12 qua các giao lưu văn hóa giữa phương Tây Thiên chúa giáo và phương Đông Ả Rập cũng như qua nước Tây Ban Nha thời kỳ Hồi giáo.

Lịch sử

Trước khi có giấy

Cây cói giấy Các hình vẽ trong hang động là những văn kiện lâu đời nhất do con người vẽ bằng bột màu. Người Sumer, có nền văn hóa cao lâu đời nhất được biết đến, viết trên những tấm bia bằng đất sét (văn tự hình nêm, bắt đầu từ khoảng 3300 năm trước Công nguyên). Các vật liệu hữu cơ dùng để viết lên sau đó ít bền hơn. Nếu không có những tấm bia bằng đất sét của người Sumer chúng ta biết rất ít về thời gian này. Da, giấy da (parchment), gỗ, vỏ cây, giấy cói (giấy chỉ thảo) - có ở Ai Cập khoảng 3000 năm trước Công nguyên - và giấy đều có thể cháy và bị phân hủy sinh học.

Giấy cói (giấy chỉ thảo) làm bằng một loại lau sậy (cây cói giấy hay cây chỉ thảo – cyperus papyrus, họ Cói) được buộc vào với nhau và đặt chéo lên nhau trước khi được ép lại. Người ta viết trên đó bằng mực đỏ hay đen. Mực đen bao gồm bồ hóng và một dung dịch từ nhựa của cây keo (gummi arabicum). Mực đỏ được làm từ hoàng thổ. Người ta dùng một cây cọ làm từ cây sậy (cây lau) để viết.

Giấy cói cổ từ Ai Cập Mặc dù cây cói giấy (cây chỉ thảo) cũng có ở Hy Lạp nhưng không được lan truyền ra ngoài nước. Trong thế kỷ thứ 3 người Hy Lạp thay thế cọ viết bằng lông chim. Từ giấy trong các thứ tiếng ở châu Âu (papier, paper...) dẫn từ tên của cây cói giấy - papyrus.

Ngoài ra người ta còn viết trên giấy da (parchment) là loại da mỏng chưa được thuộc.

Ở Roma người ta sử dụng cả giấy cói (giấy chỉ thảo) lẫn bảng làm bằng sáp, văn thơ được khía lên bằng một cây nhọn. Dùng một tấm cạo có thể làm phẳng sáp lại và lại có thể viết lên trên tấm bảng này. Ở Ấn Độ người ta dùng lá cây cọ. Ở Trung Quốc, trước khi phát minh ra giấy, xương, vỏ sò ốc, ngà voi, sau đó là đồng thau, sắt, vàng, bạc, thiếc, thạch anh, đá, đất sét, tre và tơ lụa đều được dùng đến.

Trong thế kỷ thứ 5 (triều nhà Hậu Hán) Phạm Diệp (范曄) đã tường thuật lại:

:Từ xưa người ta đã dùng thanh tre để viết, được cột lại với nhau. Cũng có một loại giấy làm từ phế phẩm của tơ lụa. Nhưng tơ lụa quá đắt còn các thanh tre thì quá nặng nên không sử dụng thích hợp. Vì thế Thái Luân (蔡倫) nghĩ ra kế làm giấy từ các vỏ thân cây, sợi thân cây, từ cây gai dầu cũng như từ vải và lưới đánh cá cũ. Năm Nguyên Hưng thứ nhất (105), ông tâu lên Hoàng thượng (Hán Hoà Đế), được vua khen thưởng cho tài năng của ông. Từ đấy giấy trở nên thông dụng và trong cả vương quốc mọi người đều gọi đó là giấy của quý nhân Thái.

Các khám phá về khảo cổ ở Trung Hoa cộng với phép tính tuổi bằng carbon phóng xạ chứng minh rằng giấy đã hiện diện từ hai thế kỷ trước Thái Luân, nhưng người ta vẫn cho Thái Luân là người phát minh ra giấy thực thụ như ngày nay.

Phát minh ra giấy

Các công đoạn sản xuất giấy của người Trung Quốc cổ:
1. Thu thập nguyên liệu thô
2. Đun nóng
3. Cán mỏng
4. Ép nước
5. Phơi khô Như vậy giấy làm từ tơ lụa đã được biết đến trước khi Thái Luân phát minh ra giấy trong thế kỷ thứ 1, khoảng năm 105, chủ yếu làm từ sợi bên trong của vỏ cây dâu (dâu tằm). Trước đó cũng đã có giấy làm từ cây gai dầu (Cannabis), còn được gọi là cây cần sa, như năm mẩu giấy được tìm thấy trong những năm từ 1973 đến 1978 đã chứng minh. Các ghi định thời gian được so sánh lại cho thấy các mẩu giấy này phải có nguồn gốc từ khoảng năm 140 đến 87 trước Công nguyên.

Một loại nguyên liệu giấy khác là cây thụy hương (Daphne). Cây gai dầu và thụy hương có sợi dài hơn những loại gỗ được sử dụng ngày nay và qua đó mà có độ bền cao. Hai tính chất này cho phép giấy được sử dụng vào những mục đích khác ngoài mục đích để viết. Các đồ vật để trang trí và quần áo cũng được sản xuất theo truyền thống từ giấy ở Đông Á.

Nguyên liệu làm giấy được cắt vụn ra và giã nhỏ trong nước thành bột lỏng. Các sợi được phân tán mỏng trong nước. Đầu tiên giấy được múc ra bằng một cái rây nổi trên mặt nước. Lưới ở dưới đáy rây được gắn chặt vào khung. Mỗi tờ giấy được múc ra phải được làm khô trong rây và chỉ được đem ra sau khi khô. Vì thế mà cần đến rất nhiều rây. Kỹ thuật này lan truyền đến người Thái Lan vào khoảng năm 300.

Vào khoảng năm 600 kỹ thuật múc giấy cải tiến dùng loại rây múc lan truyền đến Triều Tiên và sau đó đến Nhật. Ở loại rây múc này khung rây có thể gỡ ra khỏi rây. Tờ giấy vừa được múc có thể được lấy ra khi còn ẩm và đem đi phơi khô. Kỹ thuật này còn được sử dụng cho đến ngày nay ở các loại giấy múc bằng tay và nói chung nguyên tắc sản xuất giấy (cắt vụn, giã nhỏ trong nước, múc và hong khô) vẫn không thay đổi cho đến ngày nay.

Ở Nhật người ta cải tiến kỹ thuật này và pha vào bột của sợi giấy nhựa từ rễ của cây bụp mì (Abelmoschus manihot). Các sợi được phân tán đều hơn và không còn bị vón cục nữa. Loại giấy này được gọi là giấy Nhật (Washi-和紙).

Ở châu Âu sau này giấy được ép từng chồng, giữa hai tờ giấy có lót một tấm vải hay nỉ (phớt). Qua đó mà quá trình làm khô giấy được tăng nhanh hơn và giấy được nén chặt lại.

Sử dụng giấy lan rộng

Ngay từ thế kỷ thứ 2 đã có khăn tay giấy ở Trung Quốc. Tờ Báo Bắc Kinh phát hành số đầu tiên vào năm 363 (ngưng phát hành vào năm 1936). Trong thế kỷ thứ 6 người ta đã sản xuất giấy vệ sinh từ giấy rơm rạ rẻ tiền nhất. Xưởng trong cung đã sản xuất cho triều đình 720.000 tấm giấy vệ sinh và thêm vào đó là 15.000 tấm giấy vệ sinh tẩm hương thơm, mềm và có màu vàng nhạt cho hoàng gia.

Cũng với sự bành trướng của Con đường tơ lụa, sản xuất giấy đã được truyền bá sang Triều Tiên và Việt Nam từ thế kỷ 3 và Nhật Bản vào thế kỷ 4. Giấy bắt đầu sản xuất tại Ấn Độ, Nepal, Pakistan và Bangladesh khoảng cuối thế kỷ 7

Tiền giấy

Ở Trung Quốc vua Đường Cao Tông (650–683) phát hành tiền giấy lần đầu tiên, được công nhận là tiền tệ trong thế kỷ thứ 10. Vào khoảng năm 1300 tiền giấy cũng được ban hành ở Nhật, Ba Tư và Ấn Độ.

Ở Việt Nam, trong quyển Khâm định Việt sử Thông giám cương mục có ghi lại :Bính Tý, năm thứ 9 (1396). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 29) :Tháng 4, mùa hạ. Bắt đầu ban hành tiền "thông bảo hội sao". :Thiếu bảo Vương Nhữ Chu đề nghị đổi lại chế độ. Quý Ly nghe theo, mới định chế độ tiền giấy như sau: loại 10 đồng vẽ rau rong; loại 30 đồng vẽ thủy ba; loại một tiền vẽ đám mây, loại hai tiền vẽ con rùa; loại ba tiền vẽ con lân; loại 5 tiền vẽ con phượng; loại một quan vẽ con rồng. Người nào làm giả phải tội tử hình, tịch thu điền sản sung công. Khi tiền giấy đã in xong, hạ lệnh cho dân được đem tiền thực đổi lấy tiền giấy: cứ một quan tiền thực chất đổi lấy tiền giấy một quan hai tiền. Cấm chỉ dân gian không được dùng tiền đồng, bao nhiêu tiền đồng đều nộp vào quan, nếu như người nào tàng trữ riêng hoặc tiêu dùng riêng cũng phải tội như người làm giả tiền giấy.

Năm 1298 Marco Polo đã tường thuật lại việc lan truyền rộng rãi của tiền giấy. Trong thời gian này đã có nạn lạm phát làm giảm giá trị xuống chỉ còn vào khoảng 1% của giá trị ban đầu. Để chống nạn làm tiền giả, có thời gian tiền giấy được làm từ giấy đặc biệt có các chất phụ gia như sợi tơ, thuốc trừ sâu và chất màu.

Giấy trong thế giới Ả Rập

Vào năm 750 hay 751, kỹ thuật sản xuất giấy lan truyền đến Samarkand, có lẽ qua các tù binh người Trung Quốc trong một cuộc tranh chấp biên giới, và từ đấy kỹ thuật này lan rộng khắp thế giới Ả Rập..

Sản xuất bột giấy

Gỗ có thể được xử lý cơ học hay hóa học

Xử lý cơ học

Sơ đồ máy mài gỗ nhỏ|Bột giấy gỗ mềm tẩy trắng phương bắc trong nhà máy giấy Harmac Pacific ở Nanaimo, [[Canada]]

  • Bột gỗ mài trắng: được mài từ gỗ đã được bóc vỏ trong các máy mài gỗ.
  • Bột gỗ mài nâu: hình thành khi các cuống cây được thấm ướt trong các nồi nấu trước khi được mài.
  • Bột nhiệt cơ: được sản xuất từ phế liệu gỗ được băm nhỏ và vỏ bào của các xưởng cưa. Theo phương thức TMP (thermo-mechanical pulp), hay "bột nhiệt cơ", chúng được làm thấm ướt ở 130 °C. Các liên kết linhin (lignin) nhờ vậy bị yếu đi. Sau đó nước được thêm vào và các miếng gỗ này được nghiền trong các máy nghiền (refiner). Nếu hóa chất được sử dụng thêm vào trong lúc thấm ướt phương pháp này được gọi là phương pháp CTMP (chemo-thermo-mechanical pulp), hay "bột hóa nhiệt cơ".

Nếu chỉ dùng các phương thức cơ để sản xuất, thành phần của bột gỗ không phải là các sợi cellulose mà là các liên kết sợi đã được mài và nghiềm nhỏ ra. Để có thể lấy được sợi nguyên thủy phải dùng đến các biện pháp xử lý gỗ bằng hóa học.

Xử lý hóa học

Các mảnh gỗ được xử lý hóa học bằng cách nấu. Sau khi nấu 12 đến 15 tiếng các sợi sẽ được tách ra khỏi các thành phần cứng đi cùng với cellulose. Nhìn theo phương diện hóa học, gỗ bao gồm:

  • 40% - 50% cellulose
  • 10% - 55% hemicellulose
  • 20% - 30% linhin (lignin)
  • 6% - 12% các hợp chất hữu cơ khác
  • 0,3% - 0,8% hợp chất vô cơ

Tùy theo hóa chất được dùng để nấu, người ta phân biệt ra các phương pháp kiềm, sunfit (sulfit) và sunfat (sulfat). Phần linhin còn sót lại sau khi nấu sẽ làm cho bột giấy có màu vàng hay nâu vì thế mà phải rửa sạch và tẩy bột giấy.

Sản lượng sản xuất bột giấy theo phương pháp hóa học ít hơn là sản xuất bột gỗ. Các sợi cellulose có ưu điểm là dài hơn, bền và mềm mại hơn. Các sợi cellulose từ các cây lá kim thường dài khoảng 2,5 cho đến 4 mm, sợi từ các cây lá rộng dài khoảng 1 mm.

Bột giấy sunfat so với bột giấy sunfit thì dài hơn và bền hơn vì thế chủ yếu được sử dụng để làm giấy in và giấy viết có độ trắng cao. Bột giấy sunfit đa số được dùng để sản xuất các loại giấy vệ sinh mềm.

Bột giấy cần phải được tẩy để làm giấy trắng. Bột giấy sunfat thông thường được tẩy bằng clo, vì thế mà nước thải sẽ nhiễm các hợp chất cácbon của clo. : Cl2 + H2O → H+ + Cl- + HClO : 2 NaOH + Cl2 → NaOCl + NaCl + H2O

Bột sunfit được tẩy bằng hiđrô perôxít hay bằng oxy. Kỹ thuật thân thiện hơn với môi trường, thay thế tẩy sử dụng clo bằng sử dụng oxy và dioxide clo. : 2 NaClO3 + H2SO4 + SO2 → 2 ClO2 + 2 NaHSO4

Bột giấy tẩy không có clo có độ bền của sợi kém hơn là tẩy bằng clo, nhưng do ít ô nhiễm đến môi trường hơn nên ngày càng được dùng nhiều hơn.

Phương pháp organocell

Phương pháp organocell sản xuất bột giấy không có lưu huỳnh và vì thế mà thân thiện với môi trường hơn. Các mảnh gỗ được nấu với hỗn hợp nước và mêtanol (methanol) có cho thêm dung dịch kiềm qua nhiều giai đoạn dưới áp suất và ở nhiệt độ đến 190 °C. Qua đó linhin và hemicellulose được hòa tan ra. Sau đó phải rửa sạch qua nhiều giai đoạn rồi tẩy và tháo nước.

Mêtanol và kiềm được lấy lại qua một phương pháp tái chế được tiến hành song song với sản xuất bột giấy. Ngoài ra còn thu được linhin và hemicellulose không chứa lưu huỳnh được sử dụng tiếp tục trong công nghiệp hóa học.

Khử mực giấy cũ

Các phương pháp khử mực giấy loại có mục đích chính là nhằm loại bỏ các hạt mực cũng như các chất phụ gia khác như chất độn, các hạt mang màu trong quá trình tráng phủ ra khỏi thành phần sơ xợi.

Hai phương pháp khử mực giấy loại (de-inking) được sử dụng phổ biến rộng rãi ngày nay trên thế giới là phương pháp tuyển nổi (flotation) và rửa (washing). Phương pháp tuyển nổi thích hợp với các hạt mực và các hạt phụ gia có kích thước từ 10 đến 250 µm trong khi phương pháp rửa thích hợp với kích thước hạt mực và phụ gia từ 30 µm trở xuống. Ngày nay phần lớn các nhà máy tái chế giấy loại thường ứng dụng cả hai phương pháp khử mực bằng tuyển nổi và rửa trong quá trình sản xuất.

Phương pháp tuyển nổi:

:Sử dụng nguyên lý bám dính của các hạt vật chất vào bong bóng khí để loại bỏ mực in và các chất phụ gia của giấy loại như chất độn, các hạt mang màu... Có thể chia ra các công đoạn chính trong quá trình tuyển nổi như sau:

Giai đoạn tách mực ra khỏi sơ xơi:

:Mực in được in vào bề mặt của sơ xợi bằng nhiều phương pháp khác nhau như in offset, in gravure, in UV-Curing, in letter press hay in flexo và trong giai đoạn đầu tiên của phương pháp khử mực, người ta phải tách các hạt mực in này cùng với các hạt phụ gia ra khỏi bề mặt của sơ xợi. Giai đoạn này trong sản xuất được thực hiện ở máy nghiền thủy lực với sự hỗ trợ của một số hóa chất khử mực như NaOH (sodium hydroxide), Na2CO3 (sodium silicate), (Hydrogen peroxide), các chất hoạt tính bề mặt (surfactant)...

:Dưới tác dụng của các hóa chất khử mực, mối liên kết giữa mực in và sơ xợi bị lỏng đi, trở nên kém bền vững đồng thời các hạt mực cũng trở nên kỵ nước, bị xé nhỏ và tách ra khỏi sơ xợi dưới tác dụng của các dao trong quá trình nghiền thủy lực.

Giai đoạn loại bỏ mực ra khỏi sơ sợi trong quán trình tuyển nổi:

:Sau khi mực và các hạt phụ gia được tách ra khỏi bề mặt sơ xợi, chúng ta sẽ phải loại bỏ chúng để thu được sơ xợi "sạch" để sản xuất giấy. Như đã trình bày ở trên, phương pháp tuyển nổi dùng các bọt khí để loại bỏ các hạt mực và các hạt phụ gia. Về lý thuyết có thể ứng dụng với các hạt chất rắn có kích thước từ 10 đến 500 µm nhưng hiệu quả nhất đối với tuyển nổi giấy tái chế là từ 10 đến 250 µm. Do tác dụng của hóa chất (các chất lựa chọn) và đặc biệt là sự có mặt của các ion calci mang điện dương 2+ trong nước, các phân tử của xà phòng kết hợp với các ion Calci này tạo ra các hạt vật chất nhỏ điện tích mang điện dương, qua đó dễ dàng đính với các hạt mực (điện âm). Bởi vì các chất lựa chọn như soap là một chuỗi hydrocarbon gồm cả phần kỵ nước và háo nước (ví dụ như stearic acid)nên các hạt mực được đính kèm với các hạt vật chất nhỏ mang điện dương (sản phẩm của soap collector and calcium có trong nước), rồi qua đó tiếp tục đính với các hạt mực khác (cũng đã được đính với các hạt mang điện dương) và tạo thành các cụm mực nhỏ và các cụm mực nhỏ này tiếp tục được đính vào các bong bóng khí nhờ tính kỵ nước và háo nước của soap collector.

Xử lý bột trước khi sản xuất giấy

Bột giấy được nghiền trong các máy nghiền (refiner) trước khi đưa qua máy giấy. Bên trong máy nghiền dung dịch bột giấy đậm đặc chảy qua giữa một trục lăn có dao và các dao gắn cố định. Sợi sẽ được cắt (nghiền thô) hay ép (nghiền tinh) tùy theo các điều chỉnh dao. Hai đầu của sợi cellulose sẻ bị tưa ra giúp cho các sợi liên kết với nhau tốt hơn khi tấm giấy hình thành.

Các loại giấy hút nước, có thể tích cao và mềm mại hình thành từ các sợi được nghiền thô như giấy thấm. Sợi được nghiền tinh được dùng để sản xuất các loại giấy cứng và bền, ít thấm nước có tính trong suốt thí dụ như giấy vẽ kỹ thuật. Ngoài ra khi nghiền các sợi cellulose còn có thể được cắt ngắn đi. Chiều dài của sợi và cách nghiền bột quyết định chất lượng của giấy.

Máy xeo giấy

nhỏ| Máy sản xuất giấy Giấy được tạo thành tấm trên máy xeo giấy. Dung dịch bột giấy (99% là nước) sau khi được làm sạch nhiều lần chảy lên mặt lưới. Trên lưới này phần lớn nước chảy thoát đi và cấu trúc của tờ giấy bắt đầu thành hình. Bên dưới lưới có đặt máy hút nước để giúp thoát nước. Giấy sản xuất công nghiệp có hai mặt: mặt lưới và mặt láng, các sợi giấy hầu như đều hướng về một chiều: chiều chạy của lưới. Sau đó giấy được ép rồi đưa qua phần sấy tiếp theo là được ép láng và cuộn tròn.

Chất độn

Ngoài sợi cellulose ra bột giấy còn được trộn thêm đến 30% các chất độn:

  • Cao lanh (China clay)
  • Tinh bột
  • Blanc fixe
  • Dioxide titan
  • Phấn

Các chất độn làm đầy phần không gian giữa các sợi giấy và làm cho giấy mềm mại và có bề mặt láng hơn. Thành phần của chất độn sẽ quyết định độ trong suốt hay độ mờ đục của giấy. Để chống không lem mực phải cần đến keo.

Tiêu chuẩn kích thước giấy

Khổ giấy theo tiêu chuẩn quốc tế EN ISO 216 xuất phát từ chuẩn DIN 476 do Viện tiêu chuẩn Đức (Deutschen Institut für Normung - DIN) đưa ra năm 1922. Song song với tiêu chuẩn này còn có các hệ thống khác như tại Hoa Kỳ hay Canada.

Phân loại giấy tại Việt Nam theo HS

Chương 48

Theo bảng phân loại HS, giấy chủ yếu được xếp vào nhóm 48

  1. Giấy in báo, dạng cuộn hoặc tờ: Là loại giấy không tráng dùng để in báo, có tỷ trọng sợi gỗ thu được từ phương pháp chế biến cơ học hoặc cơ-hoá học lớn hơn hoặc bằng 65% tổng lượng sợi, không hồ hoặc dát rất mỏng, có độ ráp bề mặt Parker Print Surt (IMPa) trên 2.5 micromet, định lượng không dưới 40 g/m², nhưng không quá 65 g/m².

  2. Giấy không tráng (uncoated paper) được dùng để viết, in và các mục đích in ấn khác; giấy làm thẻ hoặc dải đục lỗ:

Nhóm này bao gồm giấy được làm từ bột giấy đã tẩy trắng hoặc bột giấy thu được từ phương pháp chế biến cơ học hoặc hóa cơ, thoả mãn một trong những tiêu chuẩn sau đây: :2.1. Đối với giấy định lượng ≤ 150g/m²: ::2.1.1. Chứa ≥ 10% lượng sợi thu được bằng phương pháp cơ học hoặc hóa cơ, và: :::2.1.1.1. Định lượng ≤ 80g/m²; hoặc :::2.1.1.2. Nhuộm màu toàn bộ ::2.1.2. Chứa ≥ 8% cặn, và: :::2.1.2.1. Định lượng ≤ 80g/m²; hoặc :::2.1.2.2. Nhuộm màu toàn bộ ::2.1.3. Chứa ≥ 3% cặn, có độ sáng ≥ 60% ::2.1.4. Chứa ≥ 3% và ≤ 8% cặn, có độ sáng ≤ 60% và chỉ số bục (burst index) ≤ 2.5 kPa.m²/g ::2.1.5 Chứa ≤ 3% cặn, có độ sáng ≥ 60%, chỉ số bục (burst index) ≤ 2.5 kPa.m²/g :2.2. Đối với giấy định lượng ≥ 150g/m²: ::2.2.1. Nhuộm màu toàn bộ ::2.2.2. Có độ sáng ≥ 60% và: :::2.2.2.1. Độ dày ≤ 225 micromet, hoặc :::2.2.2.2. Độ dày ≥ 225 micromet nhưng ≤ 508 micromet và lượng cặn ≥ 3% :::2.2.3. Có độ sáng ≤ 60%, dộ dày 254 micromet và lượng cặn ≥ 8%

  1. Giấy vệ sinh, khăn lau mặt, lau tay, khăn ăn và các loại tương tự dùng cho mục đích nội trợ, vệ sinh; giấy nỉ xenlulô và giấy nỉ mỏng bằng sợi xenlulô; có thể đã được làm nhăn, dập nổi, tạo lỗ châm kim, nhuộm màu bề mặt, trang trí hoặc in bề mặt, dạng cuộn hoặc tờ

  2. Giấy và bìa Kraft không hồ trắng, dạng cuộn hoặc tờ: Giấy có tỷ trọng sợi gỗ thu được bằng phương pháp chế biến hoá học soda hoặc sunphat chiếm ≥ 80% tổng lượng sợi.

Trong nhóm này có nhóm 4804.11 và 4804.19 giấy gói hàng được hiểu là giấy được hoàn thiện bằng máy hoặc được láng bằng máy, có tỷ trọng sợi gỗ thu được từ phương pháp chế biến hoá học soda hoặc sunphat chiếm ≥ 80%, dạng cuộn, định lượng xấp xỉ 115g/m², có chỉ số cháy Mullerf tối thiểu được tính bằng phương pháp nội suy hoặc ngoại suy tuyến tính theo bảng kết quả dưới đây: :Định lượng (g/m²): 115; 125; 200; 300; 400 :Chỉ số cháy Mullerf tối thiểu: 393; 417; 637; 824; 961

Trong nhóm này có nhóm 4804.21 và 4804.29 "giấy kraft làm bao" là giấy được hoàn thiện bằng máy có tỷ trọng sợi gỗ thu được từ phương pháp ché biến hoá học soda hoặc sunphat ≥ 80%, dạng cuộn, định lượng ≥ 60g/m² và ≤ 115 g/m², thoả mãn một trong các điều kiện sau: :4.1. Có chỉ số cháy Mullen ≥ 3.7 kPa.m²/g và hệ số căng ≥ 4.5% theo chiều ngang và ≥ 2% theo chiều máy :4.2. Có chỉ số độ dai và độ giãn được tính bằng phương pháp nội suy - ngoại suy tuyến tính từ bảng tính dưới đây:

  1. Giấy và bìa không tráng khác, không hồ khác, dạng cuộn hoặc tờ, chưa được gia công thêm hoặc xử lý khác

  2. Giấy đã sunphua hoá, giấy chống thấm dầu, giấy can (tracing paper) và giấy bóng kính, các giấy bóng trong và giấy bóng mờ khác, dạng cuộn hoặc tờ

  3. Giấy hỗn hợp được làm bằng cách dán các lớp giấy phẳng lại với nhau bởi một lớp keo dính, không hồ trắng hoặc thấm tẩm bề mặt, có hoặc không có gia cố bên trong, dạng cuộn hoặc tờ.

  4. Giấy đã gấp nếp làn sóng (có thể đã được dán các tờ phẳng lên mặt) đã làm vân, làm nhăn, dập nổi hoặc soi lỗ, dạng cuộn hoặc tờ

  5. Giấy than, giấy tự copy và các loại giấy để sao chụp khác (kể cả giấy đã hồ trắng hoặc thấm tẩm dùng cho máy đánh giấy nến hoặc in bản kẽm) đã hoặc chưa in, dạng cuộn hoặc tờ

  6. Giấy đã hồ trắng (giấy tráng - coated paper) 1 hoặc cả hai mặt bằng một lớp cao lanh hoặc các chất vô cơ khác, có thể có thêm chất kết dính, không có lớp phủ ngoài nào khác, có thể đã nhuộm màu bề mặt, trang trí hoặc in bề mặt, dạng cuộn hoặc tờ

  7. Giấy nỉ xenlulô, giấy nỉ mỏng bằng sợi xenlulô đã hồ trắng, thấm tẩm, phu nhuộm màu bề mặt, có thể được trang trí hoặc in bề mặt, dạng cuộn hoặc tờ

  8. Khối lọc, thanh tấm lọc, bột giấy dạng tấm

  9. Giấy cuốn thuốc lá, có thể đã được chia cắt thành miếng nhỏ hoặc cuốn sẵn thành ống

  10. Giấy dán tường và các loại giấy phủ tường tương tự

  11. Tấm phủ sàn

  12. Giấy than, giấy tự copy và các loại giấy dùng để sao chụp khác, giấy nến và các bản in offset bằng giấy

  13. Phong bì, thiếp mời, bưu thiếp, danh thiếp, các loại hộp, túi và các sản phẩm tương tự bằng giấy khác để đựng thư từ trao đổi

  14. Giấy dùng cho vệ sinh và các loại giấy tương tự, giấy nỉ, giấy nỉ mỏng bằng sợi xenlulô dùng mục đích cắt theo hình dạng, kích thước khăn lau tay, khăn mặt, khăn trải bàn, khăn ăn, tã lót, băng vệ sinh, khăn trải giường, đồ dùng nội trợ, vệ sinh và một số, các vật phẩm trang trí, đồ phụ tùng tương tự

  15. Thùng, sắc, túi nhỏ và các loại bao bì khác bằng giấy

  16. Sổ đăng ký, sổ sách kế toán, vở ghi chép (Sổ đặt hàng, biên lai), sổ ghi nhớ, nhật ký, vở bài tập...

  17. Các loại nhãn bằng giấy hoặc bìa, đã hoặc chưa in

  18. Ống lõi, tuýp, suốt, cửi và các loại tương tự bằng bột giấy, giấy hoặc bìa, đã hoặc chưa đục lỗ hoặc làm cứng.

  19. Giấy bìa, giấy xenlulo và giấy nỉ mỏng sợi xenlulo khác, cắt theo kích cỡ hoặc mẫu, các vật phẩm khác bằng bột giấy, giấy hoặc bìa giấy, giấy nỉ xenlulo hoặc giấy nỉ mỏng sợi xenlulo

Chương khác

Ngoài ra, có một số loại giấy được phân vào các nhóm khác: nhỏ|Giấy tẩm nước hoa để phân định

  1. Giấy thơm, các loại giấy đã thấm tẩm mỹ phẩm: nhóm 33

  2. Giấy hoặc tấm lót xenlulo đã thấm tẩm, tráng, phủ bằng xà phòng hoặc chất tẩy (nhóm 34.01), hoặc bằng các chất đánh bóng, kem hoặc các chế phẩm tương tự: nhóm 34.05)

  3. Giấy hoặc cáctông có phủ lớp chất nhạy (Photographic paper): nhóm 37.01 đến 37.04, chưa phơi sáng hoặc đã phơi sáng nhưng chưa tráng

  4. Giấy được thấm tẩm chất thử chẩn đoán (Paper chromatography) hoặc chất thử thí nghiệm: nhóm 38.22

  5. Giấy được gia cố bằng tấm plastic, hoặc một lớp giấy hoặc cáctông được tráng hoặc phủ một lớp plastic, lớp plastic này dày hơn 1/2 tổng bề dày, hoặc các sản phẩm làm bằng loại giấy này (trừ các tấm phủ tường thuộc nhóm 48.14): nhóm 39

  6. Giấy hoặc các tông ráp (Sandpaper): nhóm 68.05; giấy hoặc cáctông bồi mica: nhóm 68.14

Các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giấy

nhỏ|Thước đo độ dày của giấy dạng [[cơ học]] Các tiêu chuẩn dùng để đánh giá chất lượng giấy bao gồm: độ trắng, định lượng giấy, độ dày, độ cứng, độ đục, độ trong, độ bền xé, độ bền gấp, chiều dài đứt, độ ẩm, độ hút nước, độ kiềm, độ sần, độ nhám, độ tro và khối lượng riêng.

Theo định lượng

Giấy lụa, giấy mỏng: ≤40 g/m² Giấy: 40 - 120 g/m² Giấy bìa: 120 - 200 g/m² Bìa: >200 g/m²

Theo màu sắc

Nâu: giấy chưa tẩy trắng Trắng: giấy đã tẩy trắng *Giấy màu: giấy đã tẩy trắng và nhuộm màu dye hoặc pigment.

Theo ứng dụng

Công nghiệp: giấy bao bì, giấy gói, giấy lọc, giấy cách điện... Văn hóa: giấy viết, giấy in, giấy báo, giấy in tiền... *Lương thực: giấy gói thực phẩm, giấy gói kẹo, giấy túi chè...

Theo vật liệu

Sợi gỗ: giấy sản xuất từ sợi gỗ Nông sản: rơm, cỏ... *Tái chế: rác thải hoặc bột giấy thứ cấp

Theo xử lý bề mặt

Giấy tráng: tráng cao lanh hoặc các hợp chất vô cơ khác Giấy không tráng: không tráng cao lanh hoặc các hợp chất vô cơ khác *Giấy tráng nhôm, thiếc, hợp chất cao phân tử...

Theo kỹ thuật kết thúc quá trình sản xuất

Giấy cán láng và siêu cán láng Giấy tráng men *Giấy có bề mặt được làm bóng 1 mặt hoặc cả hai mặt

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Một tờ giấy vẽ **Giấy** là một loại vật liệu mỏng được làm từ chất xơ dày từ vài trăm µm cho đến vài cm, thường có nguồn gốc thực vật, và được tạo thành
nhỏ|Giày da công sở nhỏ|[[Giày thể thao]]**Giày** là một vật dụng đi vào bàn chân con người để bảo vệ và làm êm chân trong khi thực hiện các hoạt động khác nhau. Mặc dù
[[Tranh Đông Hồ được làm từ giấy dó]] **Giấy dó** là loại giấy được sản xuất từ vỏ những cây dó (như dó giấy, dó liệt...), theo quy trình thủ công được truyền lại qua
Giấy can nhỏ|Giấy can cuộn nhỏ|[[Phong bì dùng giấy can mỹ thuật]] **Giấy can** (tiếng Pháp: _papier calque_, từ _can_ bắt nguồn từ từ tiếng Pháp _calque_ /kalk/) là giấy có khả năng thấu quang
**Cỡ giày dép** là một chỉ thị bằng số và chữ về độ khít của giày dép đối với bàn chân của mỗi người. Thông thường, nó chỉ bao gồm một số chỉ ra độ
**Giấy phép BSD** là một gia đình của giấy phép phần mềm miễn phí cho phép, áp đặt các hạn chế tối thiểu về việc sử dụng và phân phối các phần mềm được bảo
thumb|Các loại tiền giấy mệnh giá 5000. ([[Đô la Mỹ|USD, CFA, JPY, ITL và FF)]] **Tiền giấy**, (hoặc **tiền mặt**) thường được gọi là **giấy bạc ngân hàng** _(Tiếng Anh: banknote, bill, paper money, note)_,
nhỏ|Cấu trúc của các sợi bột giấy nhỏ|Bột giấy tại một [[nhà máy giấy gần Pensacola, 1947]] **Bột giấy** là một vật liệu sợi lignocellulose được chuẩn bị bằng cách tách biệt hóa học hoặc
|thumb|phải|Biểu trưng Creative Commons thumb|thumbtime=18|Video này giải thích cách sử dụng giấy phép Creative Commons cùng với các thỏa thuận cấp phép thương mại **Giấy phép Creative Commons** là một số giấy phép bản quyền
nhỏ|Giày cao gót màu đen nhỏ|Giày cao gót do [[Christian Louboutin thiết kế]] **Giày cao gót** hay còn gọi là **guốc**, là một loại giày có đế có góc hướng lên trên. Gót chân ở
nhỏ|400x400px|Giấy phép phần mềm trong bối cảnh bản quyền theo Mark Webbink. Từ trái sang phải ít quyền cho người được cấp phép/user của một phần mềm và nhiều hơn nữa quyền giữ lại bởi
thế=|nhỏ|Một đôi giày bảo hộ mũi thép của Nhật thế=|nhỏ|Một đôi giày an toàn chuẩn ISO 20345: 2004 tuân thủ S3 **Giày bảo hộ lao động** (hay còn được gọi là **giày bảo hộ**, **giày
thumb|Nghề đánh giày năm 1916 **Thợ đánh giày** hoặc **nghề đánh giày** là một công việc của một người chịu trách nhiệm làm sạch và đánh bóng giày dép bằng sáp và xi đánh giày,
**Giấy phép MIT** là một loại giấy phép sử dụng cho các phần mềm mã nguồn mở được phát triển dựa trên một loại giấy phép có nguồn gốc tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT).
Mô hình nhà gấp bằng giấy bìa. **Mô hình giấy (papercraft)** là tập hợp các loại hình nghệ thuật sử dụng giấy hoặc bìa trơn (card stock) làm phương tiện chính để tạo ra các
nhỏ|[[Thẻ căn cước hoặc Thẻ nhận dạng cá nhân (trong ảnh là Thẻ nhận dạng cá nhân của Ba Lan, bản 2004), một loại giấy tờ tùy thân phổ biến|alt=hieu]] **Giấy tờ tùy thân** hoặc
nhỏ|_Sugiharagami_ (杉原紙), một dạng của giấy Washi nhỏ|Hạc làm từ giấy Washi. Giấy là một loại giấy được sản xuất rất đặc trưng của Nhật Bản. Washi thường được chế từ vỏ của cây gampi,
thumb|Converse Chuck Taylor All-Stars **Converse** là một công ty giày của Mỹ chuyên sản xuất giày trượt ván, giày dép thường ngày và quần áo. Được thành lập vào năm 1908, đến nay Converse đã
Túi giấy kraft Túi giấy Kraft liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Sugar,_Downpatrick,_September_2010.JPG|nhỏ|Túi giẩy đựng đường **Túi giấy** là một loại túi được làm bằng giấy, thường là giấy kraft (là giấy hoặc bìa (bìa cứng) được sản xuất từ
**Tổng công ty Giấy Việt Nam** (**Vinapaco**) là doanh nghiệp được thành lập theo Quyết định số 256/TTg ngày 29 tháng 04 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ theo mô hình Tổng Công ty
thumb|Giấy phép lái xe quốc tế do [[Đài Loan cấp]] **Giấy phép lái xe quốc tế** là một thẻ nhận dạng cá nhân cho phép người sở hữu nó điều khiển xe cá nhân tại
thumb|right |Giày cao gót bị luật pháp và chính sách hạn chế ở nhiều địa điểm như trường học, bảo tàng và các địa phương như [[Mobile, Alabama. Trong trường hợp này, tấm biển cấm
**Người Giáy**, còn gọi là **Nhắng, Dẳng, Pâu Thìn, Pu Nà, Cùi Chu, Xạ**, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam . Người Giáy nói tiếng Bố Y, một ngôn
Tập tin:Euro Series Banknotes (2019).jpg **Euro** (ký hiệu tiền tệ quốc tế: "EUR") là tiền tệ chung của 12 nước thuộc Liên minh châu Âu. Tiền giấy và tiền kim loại Euro bắt đầu được
nhỏ|phải|Logo GPLv3 Biểu trưng "Heckert" của GNU **Giấy phép Công cộng GNU** (tiếng Anh: _GNU General Public License_, viết tắt **GNU GPL** hay chỉ **GPL**) là giấy phép phần mềm tự do được sử dụng
**Giấy phép Công cộng Mozilla** (**Mozilla Public License** - MPL) là một giấy phép phần mềm tự do và mã nguồn mở. Phiên bản 1.0 do Mitchell Baker phát triển khi bà là luật sư
nhỏ|phải|Giấy ghi việc có dính keo **Giấy ghi việc** (**giấy nhắc việc**, **giấy giao việc**, **giấy ghi chú**, **giấy nhớ, giấy note** hay **giấy post-it**) là những mẩu giấy nhỏ, thường có màu để dễ
thumb|Giấy phép lái xe Việt Nam **Giấy phép lái xe** hay còn gọi là **Bằng lái xe** là một loại giấy phép, chứng chỉ do cơ quan nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền
**Giấy giả da, giấy sunphua hóa, giấy giả da gốc thực vật** (tiếng Anh: parchment paper) là giấy được tạo ra bằng cách ngâm trong vòng vài giây đồng hồ một tờ giấy chất lượng
thumb|right|Một hộp xi đánh giày. **Xi đánh giày** là chất hồ dạng sáp, kem hoặc chất lỏng dùng để đánh bóng, làm sáng và chống thấm cho giày hoặc ủng da nhằm kéo dài tuổi
**Giấy Tuyên** (, Hán-Việt: Tuyên chỉ) hay **giấy huyện Kính** (, Hán-Việt: Kính huyện chỉ) là một loại giấy có nguồn gốc ở Trung Quốc cổ đại, được sử dụng để viết và vẽ. Giấy
nhỏ|phải|[[Giày chạy của hãng ASICS]] nhỏ|Giày bóng rổ Chuck Taylor All-Stars của hãng [[Converse (công ty giày)|Converse]] nhỏ|[[Nike Air Max]] nhỏ|Giày tennis [[Adidas Stan Smith]] nhỏ|[[Sneaker của hãng Adidas]] nhỏ|Một cửa hàng bán giày thể
Một số giá treo hoặc hộp đựng giấy vệ sinh cho phép treo giấy vệ sinh ở phía trước (trên) hoặc phía sau (dưới) cuộn giấy khi nó được đặt song song với tường. Điều
nhỏ|Cấu trúc bề mặt giấy in phun **Giấy in phun** là loại giấy có tráng phủ lên mặt một lớp hợp chất vô cơ, chủ yếu để ngăn mực in phun loang ra trong giấy,
Tranh làm trên cơ sở cuốn giấy **Tranh giấy xoắn** được biết là dòng tranh dùng sợi giấy nhiều màu sắc đã được cắt thành sợi nhỏ đều nhau, gấp cuộn lại rồi khảm vào
**Chi Hoa giấy** hay **chi Bông giấy** (danh pháp khoa học: **_Bougainvillea_**) là một chi trong thực vật có hoa bản địa khu vực Nam Mỹ, từ Brasil về phía tây tới Peru và về
thumb|Cuộn giấy vệ sinh và kẹp giữ **Giấy vệ sinh** đã được biết tới từ thế kỷ 14 tại Trung Quốc. Lúc đó, chỉ có những người trong hoàng tộc là được sử dụng giấy
nhỏ|Giấy chứng tử của Eddie Scheiner (1911-1940), cấp tại [[New York, Hoa Kỳ]] **Giấy chứng tử** hay **Giấy khai tử** là một loại giấy tờ hộ tịch của cá nhân được cơ quan nhà nước
**Giấy phép Apache** là một giấy phép phần mềm tự do của Quỹ Phần mềm Apache (_Apache Software Foundation - ASF_). Giấy phép Apache bắt buộc phải có thông báo bản quyền và lời phủ
**Cầu Giấy** là một quận nội thành cũ thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Quận Cầu Giấy nằm ở phía tây trung tâm thành phố Hà Nội, có vị trí địa
thumb|Một cuộn khăn giấy (cuộn khăn bếp) **Khăn giấy** là một loại khăn dùng một lần được làm từ giấy. Ở Anh, khăn giấy dùng trong nhà bếp còn được biết đến với tên gọi
thumb|Cốc giấy loại đơn giản thumb|Cốc giấy cách nhiệt dành cho đồ uống nóng, cắt lớp để thấy tầng không khí **Cốc giấy** là một loại cốc làm bằng giấy và thường được lót bằng
Một [[pixel|điểm ảnh của giấy điện tử, nằm giữa 2 điện cực trong suốt. Màu sắc của điểm ảnh thay đổi qua 2 trạng thái theo điện thế áp lên 2 cực.]] **Giấy điện tử**,
**Giấy viết** là loại giấy không tráng phủ bề mặt, có mức độ gia keo phù hợp với việc dùng các loại bút mực để viết. Giấy viết thường được làm từ bột giấy hóa
nhỏ|Giấy không thấm dầu mờ TMG nhỏ|Giấy nến không thấm nước **Giấy không thấm mỡ, giấy chống thấm dầu** (**giấy simili sunphua hóa**) (tiếng Anh: Greaseproof papers hay _wax paper_) là giấy thu được giản
thumb|Khrushchev tại cuộc họp của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc vào ngày 22 tháng 9, ba tuần trước khi vụ việc xảy ra **Sự cố đập giày** xảy ra khi Nikita Khrushchev, Bí thư
nhỏ|Các tờ giấy nhám với các kích cỡ grit khác nhau (40 (thô), 80, 150, 240, 600 (mịn)). **Giấy nhám** hay **giấy ráp** (tiếng Anh: sandpaper/glasspaper) là tên được sử dụng cho một loại lớp
nhỏ|phải|Cây Papyrus mọc tại một khu vườn ở Úc nhỏ|[[Quyển sách của cái chết|Sách về cõi chết, viết trên giấy cói]] **Giấy cói** hay tên gốc là **Papyrus** () là một vật liệu dày giống
nhỏ|Giấy lót li của hãng [[Heineken]] nhỏ|Giấy lót li chưa in **Giấy lót ly**, **lót cốc** là loại giấy được sử dụng để đặt các ly, cốc uống nước (thường là thức uống có đá)
nhỏ|phải|Đèn lồng đỏ ở [[Bình Dao]] **Đèn lồng giấy** hay **lồng đèn giấy** là một loại đèn quen thuộc đối với các nền văn hóa Á Đông. Chúng có nhiều hình dạng và kích thước