✨Fieseler Fi 103R (Reichenberg)

Fieseler Fi 103R (Reichenberg)

Fieseler Fi 103R (Reichenberg) là phiên bản của bom bay V-1 (hay tên gọi đúng hơn là Fieseler Fi 103) có người điều khiển của Đức quốc xã vào cuối Chiến tranh Thế giới II, nó được sản xuất cho các nhiệm vụ của "Phi đoàn Leonidas", Không đoàn V thuộc Kampfgeschwader 200 của Luftwaffe.

Lịch sử

Bối cảnh

Phi đoàn Leonidas, thuộc KG 200, đây là phi đoàn cảm tử. Những người tình nguyện được yêu cầu ký một lá đơn ghi rõ: "Tôi xin tự nguyện ghi danh vào nhóm cảm tử như một phần của tàu lượn-bom. Tôi hoàn toàn hiểu rằng việc làm này có khả năng dẫn đến cái chết của tôi." Ban đầu, cả Messerschmitt Me 328 và Fieseler Fi 103 (hay còn gọi là bom bay V-1) được coi là máy bay phù hợp, nhưng Fi 103 đã được thông qua. nhỏ|phải|Fieseler Fi 103R, 1945 Tuy nhiên, các vấn đề trải qua khi chuyển đổi Me 328 đã khiến Heinrich Himmler muốn hủy bỏ đề án. Otto Skorzeny, người điều tra khả năng sử dụng ngư lôi do người điều khiển tấn công tàu của quân Đồng minh, đã giới thiệu tóm tắt đề án với Hitler, nhờ đó mà đề án được khôi phục, Otto Skorzeny liền liên lạc với phi công thử nghiệm nổi tiếng Hanna Reitsch. Fi 103 được đánh giá lại và nó dường như có thể tạo một cơ hội mong manh giúp phi công sống sót, nhờ đó nó được chấp nhận cho đề án.

Đề án có tên mã là "Reichenberg" theo tên của thủ đô cũ của Tiệp Khắc là Reichsgau Sudetenland (ngày nay là Liberec), máy bay cũng được gọi là "Reichenberg-Geräte".

V-1 được chuyển đổi thành Reichenberg bằng việc thêm một buồng lái nhỏ trước lối vào khí của động cơ xung phản lực. Buồng lái có các đồng hồ đo tham số bay cơ bản và có một ghế dạng thùng làm bằng gỗ. Nắp buồng lái kiểu 1 mảnh kết hợp với một bảng điều khiển được bọc giáp, nắp buồng lái được mở sang bên để cho phi công vào khoang điều khiển. Cánh được gắn với các cạnh cứng.

Biến thể

nhỏ|phải|Fieseler Fi 103R cũng máy phóng, 1945 Có 4 biến thể: By October 1944 about 175 R-IVs were ready for action.

*R-1* – tàu lượn không động cơ có một chỗ ngồi. R-II – có 2 động cơ và có thể mang theo đầu đạn. R-III – phiên bản một chỗ. R-IV** – kiểu vận hành trang bị động cơ tiêu chuẩn.

Lịch sử hoạt động

Huấn luyện

Các tình nguyện viên được đào tạo bằng tàu lượn thường để tạo cho họ cảm giác bay, sau đó chuyển sang đào tạo bằng các tàu lượn đặc biệt có cánh ngắn và khi bổ nhào có thể đạt vận tốc lên tới 300 km một giờ (190 mph). Sau đóm họ được đào tạo tiếp bằng phiên bản R-II có hệ thống điều khiển kép.

Hủy bỏ đề án

Khi Werner Baumbach nhận quyền chỉ huy KG 200 vào tháng 10/1944, Baumbach hoãn đề án Reichenberg và ủng hộ đề án Mistel. Baumbach và Speer cùng gặp Hitler vào ngày 15/3/1945 và thuyết phục Hitler rằng các nhiệm vụ cảm tử không phải là một truyền thống của chiến binh Đức, ngay sau đó Baumbach lệnh cho các đơn vị Reichenberg giải tán. Bảo tàng Chiến tranh Canada. Bảo tàng Chiến tranh trên không Lashenden, Headcorn, Kent, (hiện đang lưu trữ tại Đức) La Coupole, Saint-Omer, Pháp. Căn cứ Không quân Stinson, San Antonio, Texas, Hoa Kỳ.

Tính năng kỹ chiến thuật (Fi 103R-IV)

Đặc điểm riêng

*Tổ lái*: 1 Chiều dài: 8 m (26,24 ft) Sải cánh: 5,72 m (18,76 ft) Chiều cao: n/a Trọng lượng có tải: 2.250 kg (4.960 lb) Động cơ**: 1 động cơ xung phản lực Argus As 014, lực đẩy 350 kgf (770 lbf)

Hiệu suất bay

*Vận tốc cực đại*: 800 km/h (500 mph (khi bổ nhào)) Vận tốc hành trình**: 650 km/h (400 mph) *Tầm bay: 330 km (205 miles)

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Fieseler Fi 103R** **_(Reichenberg)_** là phiên bản của bom bay V-1 (hay tên gọi đúng hơn là Fieseler Fi 103) có người điều khiển của Đức quốc xã vào cuối Chiến tranh Thế giới II,
**Kawanishi _Baika**_ (梅花 – Mai hoa) là một mẫu máy bay _kamikaze_ trang bị động cơ xung phản lực trang bị cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào cuối Chiến tranh Thế giới II.