✨Exile on Main St.

Exile on Main St.

Exile on Main St. là album phòng thu thứ 10 tại Anh và thứ 12 tại Mỹ của ban nhạc rock người Anh, The Rolling Stones. Đây là một bản LP-kép được phát hành vào ngày 12 tháng 5 năm 1972, bao gồm trong đó nhiều thể loại như rock and roll, blues, soul, R&B, nhạc đồng quê và cả nhạc phúc âm. Sự ra đời của Exile on Main St. đem đến nhiều đánh giá trái chiều, song hầu hết đều công nhận đây là album xuất sắc nhất của The Stones.

Các ấn bản chỉnh âm được phát hành ngày 17 tháng 5 tại châu Âu và 18 tháng 5 năm 2010 tại Mỹ, kèm với đó là một bonus disc với 10 ca khúc khác.

Thu âm và sản xuất

Exile on Main St. được thực hiện trong giai đoạn giữa 1968 và 1972. Mick Jagger nói: "Vì chúng ta đã sa thải Allen Klein, vậy nên không có lý do gì chúng ta phải đưa cho ông ta những bản thu trước nữa" – việc mà họ đã rất muốn làm với các ca khúc "Brown Sugar" và "Wild Horses" trong Sticky Fingers. Rất nhiều ca khúc đã được thu từ trước trong giai đoạn 1968-1971 tại Olympic Studios và ở ngôi nhà Stargroves của Mick từ thời kỳ Sticky Fingers.

Xuân năm 1971, The Rolling Stones đối mặt với việc phải trả một số lượng thuế lớn khi chính phủ thực hiện chính sách mới và điều đó buộc họ phải rời nước Anh. Mick Jagger tới Paris để sống cùng với người vợ mới cưới Bianca, trong khi Keith Richards thuê một biệt thự lớn ở Nellcôte, vùng Villefranche-sur-Mer, gần Nice. Các thành viên khác cũng sống rải rác ở các vùng phía Nam nước Pháp. Do không thể tìm được một phòng thu ưng ý để tiếp tục công việc hoàn thiện album, cơ ngơi của Richards ở Nellcôte trở thành phòng thu chính ngoài những phòng thu di động khác của ban nhạc.

Nellcôte

Quá trình thu âm được bắt đầu vào khoảng đầu tháng 6. Bill Wyman kể lại rằng ban nhạc đã từng làm việc thâu đêm, liên tục từ 8 giờ sáng hôm trước tới 3 giờ sáng ngày hôm sau suốt hàng tháng ròng. Wyman nói: "Không phải ai cũng có đủ tỉnh táo để thức trắng mỗi đêm. Với tôi, đó là một trong những điều đáng tiếc nhất vào thời điểm đó. Trong cả hai album trước, chúng tôi đều nghe theo nhà sản xuất Jimmy Miller. Còn ở Nellcôte, mọi chuyện đều khác và nó khiến tôi mất chút thời gian để nắm bắt." Theo thời gian, Richards ngày một trở nên nghiện ma túy. Hàng ngàn dollar để dành cho heroin được tiêu thụ tại đây trong suốt những quãng thời gian mà ban nhạc mời William S. Burroughs, Terry Southern, Gram Parsons hay Marshall Chess (người ký hợp đồng nhãn đĩa mới cho Rolling Stones).

Việc nghiện thuốc của Richards đã khiến anh không thể thường xuyên tham gia vào các buổi thu ngay tại cơ ngơi của mình, trong khi Jagger và Wyman thì không thể chấp nhận trì hoãn kế hoạch thêm được nữa. Điều đó dẫn tới việc rất nhiều các ca khúc của ban nhạc chỉ tồn tại ở dạng nháp. Bản thu đáng kể nhất mà có sự tham gia của Richards chính là ca khúc "Happy". Năm 1982, Richards nói: "Tôi đã hoàn thiện được "Happy" vì đó có lẽ là lần duy nhất tôi tới buổi thu. Hôm đó cũng có cả Bobby Keys và Jimmy Miller. Chúng tôi thấy không có việc gì làm, vậy nên cầm chiếc guitar lên và gảy vài nốt. Vậy là chúng tôi dừng ở đó, và đó chính là bản thu. Chúng tôi sử dụng bản thu có cả phần saxophone, guitar và phần trống của Jimmy Miller. Và những phần việc còn lại là hoàn thiện ca khúc đó. Tất cả diễn ra chỉ trong 1 buổi chiều mà mọi người đều thốt lên: "Wow, hãy cùng làm việc với thứ này"."

Đội hình của ban nhạc tại Nellcôte bao gồm Richards, Bobby Keys, Mick Taylor, Charlie Watts, Miller (chơi trống thay cho Watts trong "Happy" và "Shine a Light").

Los Angeles

Những ca khúc quan trọng (như "Rip this Joint", "Shake Your Hips", "Casino Boogie", "Happy", "Rocks Off", "Turd on the Run" và "Ventilator Blues")

Tuy nhiên, Richard Williams của Melody Maker thì lại đánh giá rất cao album. Ông viết trong bài báo The Stones: Quite Simply the Best rằng "nó chắc chắn sẽ có chỗ đứng trong lịch sử""đây là album tốt nhất mà họ từng làm". Williams nhấn mạnh: "Đây là album đã đẩy lùi đi những chế nhạo và giận dữ đang chĩa vào họ. Chỉ với một sản phẩm duy nhất, họ đã có câu trả lời cho câu hỏi về những nghệ sĩ chơi rock 'n' roll như họ."

Đối với những thành công thương mại và đánh giá chuyên môn đầu tiên, ông nói: "Khi Exile ra mắt, nó không có được đánh giá và cả doanh thu như mong đợi, thậm chí có nhiều chỉ trích khá gay gắt. Nhưng chỉ trong vài năm tới, mọi người sẽ viết về cái đống bầy nhầy kia như một trong những album xuất sắc nhất thế giới."

Những đánh giá tới từ rất nhiều mặt khác nhau, từ blues, soul cho tới đồng quê. Robert Christgau viết vào năm 1972: "Hiển nhiên là sản phẩm tuyệt nhất của năm, đây sẽ là điểm nhấn đặc biệt cho nhạc Rock năm 1972. Exile đã khám phá ra những chiều sâu mới từ hiệu ứng phòng thu, dồn nén giọng của Mick trong những nỗi buồn, lo lắng và cả sự nghi ngờ.", và tới năm 2000 bình chọn đây là album của Anh xuất sắc thứ 3 mọi thời đại. Đây là album ở vị trí số 3 trong danh sách Các album giai đoạn 1967-1987 của tạp chí Rolling Stone. Năm 1993, tờ Entertainment Weekly chọn đây là album số 1 trong danh sách 100 CD hay nhất. Năm 2003, Pitchfork Media xếp đây là album thứ 11 trong danh sách 100 album của những năm 70. Album có được vị trí số 22 trong những album yêu thích của kênh VH1 vào năm 2001. Tạp chí Guitar World trong số báo tháng 10 năm 2006 xếp album ở vị trí số 19 trong danh sách 100 album guitar mọi thời đại. Năm 2006, NARM và Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll chọn album ở vị trí số 6 trong danh sách "Definitive 200" cho những album "mà bất kể ai yêu nhạc cũng muốn nghe". Bản tái bản lại là album được đánh giá cao nhất theo Metacritic, cùng với siêu phẩm London Calling của The Clash.

Album và các ca khúc được sử dụng hay thể hiện lại bởi rất nhiều nghệ sĩ khác nhau. Chẳng hạn ban nhạc người Mỹ Alabama 3 cho ra mắt album đầu tay với tên gọi Exile on Coldharbour Lane. Có lẽ một trong những ấn phẩm nổi tiếng nhất là album đầu tay của nghệ sĩ nhạc indie Liz Phair có tên Exile in Guyville. Phair có nói từng ca khúc trong album của cô là những lời đối đáp với Exile on Main St. Ban nhạc Pussy Galore hát lại toàn bộ album với cách thể hiện khác, thậm chí là vô cùng đối lập với bản gốc. Năm 2007, Matchbox Twenty cũng tung ra album phòng thu của họ có tên Exile on Mainstream. Ban nhạc rock Chemlab có ca khúc "Exile on Mainline" trong album East Side Militia cũng được lấy cảm hứng từ The Rolling Stones.

Điệp vụ Boston, bộ phim nổi tiếng được thực hiện năm 2006 bởi đạo diễn lừng danh Martin Scorsese, có cảnh nhân vật Bill Costigan gửi cho Madolyn Madden chiếc hộp trang sức có tên Exile on Main St. trong đó có đoạn băng thu âm bằng chứng buộc tội Colin Sullivan dính líu tới ông trùm Frank Costello. Ca khúc "Let It Loose" của album cũng nằm trong phần nhạc phim.

Ngày 31 tháng 10 năm 2009, ban nhạc Phish hát lại toàn bộ album nhân dịp Halloween ở Indio, California.

Tái bản

Năm 2010, Exile on Main St. được chỉnh âm và phát hành bởi Virgin Records, trở thành một phần của hậu-catalogue Get Yer Ya-Ya's Out!, sau khi hãng đĩa này có được bản quyền trong việc tái bản các sản phẩm của ban nhạc.

Universal Music thực hiện chỉnh âm và phát hành lại các album sau năm 1970 của The Rolling Stones trong tập catalogue năm 2009, kế sau đó là Exile on Main St. ra mắt trong ấn bản vào tháng 5 năm 2010. Trong số 10 bonus track, chỉ có 2 ca khúc là được thu vào cùng thời kỳ thực hiện album, đó là "Tumbling Dice" được ghi dưới tên "Good Time Women", và "Soul Survivor", ca khúc cuối cùng mà Richards là người hát chính. Các ca khúc còn lại được làm sau nhiều lần ghi đè, trong đó Jagger là người hát chính, phần hát nền được thực hiện bởi các thành viên và cựu thành viên theo tour của Stones là Cindy Mizelle và Lisa Fischer, cùng với đó là phần guitar mới trong "Plundered My Soul" chơi bởi Mick Taylor. Phần harmonica được Jagger cho thêm vào trong bản 2010, còn Richards thì thêm phần lead mới cho "So Divine". "Title 5" không phải là một ca khúc thu trong thời kỳ Exile mà từ tận năm 1967. Những hiệu ứng MRB được thực hiện từ bộ amphi Vox Conqueror hoặc Supreme, được Richards sử dụng trong giai đoạn 1967-1968. "Loving Cup" được thực hiện vào đầu tháng 6 năm 1969, nhưng được làm thành hai bản thu. Từ đầu tới 2.12 được biết tới là bản "say", và được phát hành rộng rãi trong những năm 1990, trong khi bản thứ 2 thì được nối vào phần còn lại, thì là phần không được biết trước đó. "Following the River" có phần ghi đè bởi Jagger trên bản thu gốc với Nicky Hopkins chơi piano.

Jimmy Fallon nói trong chương trình của mình, Late Night with Jimmy Fallon, rằng ông sẽ đánh dấu sự kiện tái bản album bằng việc mời các nghệ sĩ trình diễn lại các ca khúc trong đó. Phish là nghệ sĩ đầu tiên ủng hộ tuyên bố này.

Bản tái bản này có được vị trí số 1 tại UK Albums Chart sau gần 38 năm mà album này có được vị trí đó lần cuối. Đây là sản phẩm đầu The Rolling Stones mà trở lại vị trí quán quân sau khi tái phát hành. Nó cũng có được vị trí số 2 tại Mỹ và bán được 76.000 bản trong tuần đầu tiên. Bonus disc có tên Exile on Main St. Rarities Edition chỉ bán tại Mỹ và được Target xếp hạng ở vị trí số 27 với 15.000 bản được bán.

Năm 2011, Universal Music Entreprises phát hành lại album duy nhất tại Nhật Bản với định dạng SHM-SACD.

Xếp hạng

;Album

;Đĩa đơn

;Bảng xếp hạng cuối năm

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Exile on Main St._** là album phòng thu thứ 10 tại Anh và thứ 12 tại Mỹ của ban nhạc rock người Anh, The Rolling Stones. Đây là một bản LP-kép được phát hành vào
**Official New Zealand Music Chart** là bảng xếp hạng top 40 đĩa đơn và abum hàng tuần ở New Zealand, phát hành hằng tuần bởi Recorded Music NZ (trước đây là Hiệp hội Công nghiệp
**_London Calling_** là album phòng thu thứ ba của ban nhạc punk rock người Anh, The Clash, được phát hành ngày 14 tháng 12 năm 1979 tại Anh bởi CBS Records, sau đó vào tháng
**_Rumours_** (tạm dịch: _Những tin đồn_) là album phòng thu thứ 11 của ban nhạc rock người Anh-Mỹ Fleetwood Mac. Được chủ yếu thực hiện tại California trong năm 1976, album là sản phẩm hợp