✨Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô

Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô

Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô là đội tuyển bóng đá đại diện cho Liên Xô ở các giải đấu quốc tế. Đội tuyển bóng đá này đã từng tồn tại cho đến khi Liên Xô tan rã. FIFA quyết định đội tuyển Cộng đồng các quốc gia độc lập (và sau đó là đội tuyển Nga) là đội tuyển kế tục với danh nghĩa là thừa hưởng các kết quả đạt được trong quá khứ của họ. Tuy nhiên, một số lượng lớn các cầu thủ trong đội tuyển Liên Xô không phải là người Nga, chủ yếu trong số đó là các cầu thủ Ukraina. Sau khi Liên Xô tan rã, một số cầu thủ người Ukraina như Andrei Kanchelskis tiếp tục khoác áo đội tuyển Nga.

Từ khi tham gia giải vô địch bóng đá thế giới, đội tuyển Liên Xô mới chỉ lỡ hẹn với vòng chung kết hai lần vào các năm 1974 và 1978, còn lại đã từng tham dự 7 vòng chung kết. Thành tích tốt nhất của họ là hạng tư năm 1966. Ở cấp độ châu Âu, Liên Xô từng tham dự 5 vòng chung kết Euro, là đội đầu tiên vô địch giải năm 1960. Họ giành được ngôi á quân 3 lần (vào các năm 1964, 1972 và 1988). Tại các kỳ Thế vận hội Mùa hè, Liên Xô từng hai lần giành huy chương vàng nội dung bóng đá nam các năm 1956 và 1988.

Lịch sử

Thời kì đầu

Trận đấu quốc tế đầu tiên của một đội tuyển Xô viết diễn ra vào tháng 8 năm 1923, chỉ 9 tháng sau sự thành lập của Liên bang Xô viết. Đội tuyển nước Nga Xô viết đã đánh bại đội tuyển Thụy Điển 2-1 tại Stockholm. Trận đấu chính thức đầu tiên của Liên Xô tiến hành một năm sau với chiến thắng 3-0 trước Thổ Nhĩ Kỳ. Trận đấu này và trận tái đấu ở Ankara là những trận đấu quốc tế chính thức duy nhất được ghi nhận của đội tuyển Liên Xô cho đến tận Thế vận hội Mùa hè 1952, mặc dù cũng có vài trận giao hữu không chính thức với Thổ Nhĩ Kỳ được tổ chức ở thập niên 1930. Thế vận hội Mùa hè 1952 là giải đấu quốc tế đầu tiên đội tuyển Liên Xô tham dự. Ở vòng sơ loại, Liên Xô thắng Bulgaria 2-1. Sau đó ở vòng một Liên Xô hoà Nam Tư 5-5 mặc dù bị dẫn trước 5-1, với việc gỡ hoà trong 15 phút cuối. Cặp đấu này được đá lại và Liên Xô thua 1-3.

Giải vô địch thế giới

Liên Xô tham gia World Cup và vượt qua vòng loại ngay lần đầu tiên tham gia vào năm 1958 Ở vòng chung kết, họ được xếp cùng bảng với Brasil, Anh và Áo. Họ đã xếp đồng hạng nhì trong bảng với Anh, dẫn đến hai đội phải đấu thêm một trận đấu phụ. Anatoli Ilyin đã ghi bàn giúp Liên Xô thắng 1-0. Liên Xô sau đó thua chủ nhà Thụy Điển ở tứ kết.

Tại World Cup 1962, đội tuyển Liên Xô ở bảng 1 với Nam Tư, Colombia và Uruguay và bị loại từ vòng bảng. Thể trạng không tốt của Lev Yashin ở hai trận gặp Colombia và Uruguay được coi là một trong những nguyên nhân chính cho thất bại của Liên Xô ở giải này.

World Cup 1966 là giải vô địch thế giới thành công nhất trong lịch sử của Liên Xô, khi họ kết thúc giải đấu ở vị trí thứ tư. Liên Xô được phân vào bảng 4 cùng Bắc Triều Tiên, Ý và Chile. Liên Xô toàn thắng ở vòng bảng, vào tứ kết gặp Hungary và đánh bại đối thủ nhờ màn trình diễn của Lev Yashin. Tuy nhiên, họ thua cả hai trận cuối cùng (bán kết và tranh hạng ba) trước Đức và Bồ Đào Nha. Giải đấu năm 1966 là giải đấu Liên Xô ghi được nhiều bàn thứ nhì trong lịch sử tham dự các World Cup với 10 bàn.

Trận khai mạc World Cup 1970 giữa chủ nhà Mexico và Liên Xô. Đội bóng Xô viết là đội đầu tiên trong lịch sử World Cup thay người trong trận đấu. Liên Xô dễ dàng vượt qua vòng bảng, nhưng thua ở tứ kết trước Uruguay ở hiệp phụ. Đó là lần cuối cùng Liên Xô vào đến tứ kết một World Cup.

Vòng loại World Cup 1974 Liên Xô từ chối thi đấu với Chile do phản đối cuộc đảo chính ở Chile năm 1973 nên không lọt được vào vòng chung kết.

Sau năm 1978 không vượt qua vòng loại, World Cup 1982 là sự xuất hiện trở lại của bóng đá Liên Xô ở một giải đấu lớn sau đúng một thập kỉ. Liên Xô ở bảng 6 cùng Brasil, Scotland và New Zealand. Sau khi xếp nhì bảng ở vòng 1, họ vào vòng 2, chung bảng với Bỉ và Ba Lan. Tuy nhiên họ chỉ xếp nhì bảng sau khi thắng Bỉ và hoà Ba Lan và bị loại.

World Cup 1986 Liên Xô ở bảng C cùng với Hungary, Pháp và Canada. Họ giành ngôi đầu bảng một cách thuyết phục, gặp Bỉ ở vòng 2 (16 đội). Một phần do những quyết định của trọng tài họ thua Bỉ 3-4, dừng bước ở vòng 2. Mặc dù kết quả không tốt, đội tuyển giải này là đội tuyển Liên Xô ghi nhiều bàn nhất trong lịch sử World Cup với 12 bàn.

World Cup 1990 là giải đấu chính thức cuối cùng mà Liên Xô tham dự. Họ ở bảng B với Argentina, Romania và Cameroon. Thành công duy nhất của Liên Xô ở giải này là thắng đậm đội đầu bảng Cameroon 4-0 ở trận đấu cuối cùng, còn lại là 2 trận thua.

*Tính cả các trận hoà ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu.

Giải vô địch châu Âu

Tại các giải vô địch châu Âu đội tuyển Liên Xô là một trong những đội tuyển thành công nhất, với 1 lần vô địch và 3 lần hạng nhì. Nếu tính đến năm 1988 (thời điểm cuối cùng Liên Xô tham dự một Euro) thì Liên Xô là đội lọt vào trận chung kết nhiều nhất (4 lần).

Giải vô địch châu Âu lần đầu tiên tổ chức năm 1960 đã đánh dấu đỉnh cao của bóng đá Xô viết. Dễ dàng lọt vào tứ kết, Liên Xô gặp Tây Ban Nha. Do Chiến tranh lạnh đang căng thẳng nên Tây Ban Nha từ chối đến Liên Xô, chấp nhận bỏ cuộc. Ở bán kết, Liên Xô đánh bại Tiệp Khắc 3-0 và lọt vào chung kết, gặp Nam Tư. Ở trận chung kết, tuy bị dẫn bàn trước nhưng đội tuyển Liên Xô, với thủ môn huyền thoại Lev Yashin, đã san hoà tỉ số ở phút 49. Sau hai hiệp chính hoà 1-1, ở hiệp phụ, Viktor Ponedelnik đã ghi bàn thắng quyết định, giúp Liên Xô trở thành nhà vô địch châu Âu đầu tiên.

Năm 1964, Liên Xô dự Euro với tư cách đương kim vô địch. Họ vào đến chung kết và gặp đội chủ nhà Tây Ban Nha. Tuy nhiên họ đã thua Tây Ban Nha 1-2 và đành chấp nhận hạng nhì.

Euro 1968 bắt đầu có chia bảng đấu loại với hai giai đoạn: đấu loại vòng bảng và tứ kết loại trực tiếp. Bốn đội bóng cuối cùng thi đấu vòng chung kết ở một quốc gia. Liên Xô gặp chủ nhà Ý ở bán kết. Trận đấu kết thúc với tỉ số 0-0. Thay vì đá lại, trận đấu được quyết định bằng tung đồng xu và Liên Xô bị loại. Cuối cùng họ chỉ xếp hạng tư sau khi thua Anh.

Liên Xô lại có tên trong 4 đội cuối cùng dự vòng chung kết Euro 1972 tại Bỉ. Ở bán kết họ đánh bại Hungary 1-0. Trận chung kết diễn ra giữa Liên Xô và Tây Đức. Tây Đức với Gerd Müller trong đội hình đã giành chiến thắng áp đảo. Giải đấu này là một trong ba giải vô địch châu Âu Liên Xô ở vị trí thứ nhì.

Sau khi thất bại ở 3 vòng loại Euro liên tiếp (1976, 1980, 1984), Liên Xô lọt được vào vòng chung kết Euro 1988. Đây là lần cuối cùng đội tuyển Liên Xô đấu tại một giải vô địch châu Âu. Liên Xô dẫn đầu bảng B gồm Hà Lan, Anh và Ireland. Ở bán kết Liên Xô thắng Ý 2-0 và giành vé vào chung kết. Họ gặp lại Hà Lan ở chung kết. Với sự toả sáng của bộ ba Hà Lan bay (van Basten, Gullit và Rijkaard), Hà Lan thắng Liên Xô 2-0, trong đó có bàn thắng được đánh giá là đẹp nhất trong lịch sử Euro của van Basten. Trong trận đấu này Belanov bỏ lỡ một quả phạt đền. Liên Xô lần thứ ba giành ngôi á quân châu Âu.

Đội tuyển Liên Xô tuy vượt qua được vòng loại Euro 1992, nhưng sự sụp đổ của Liên Xô dẫn đến việc đội tuyển này không còn tồn tại. Suất dự giải đấu năm đó của Liên Xô được thay bằng Cộng đồng các quốc gia độc lập. Sau giải đấu này, các nước Liên Xô cũ (đã tuyên bố độc lập) thi đấu với các đội tuyển của riêng họ, đội tuyển thừa kế thành tích của Liên Xô là Nga.

:*Tính cả các trận hòa ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu.

Thế vận hội Mùa hè

Không như một số nền bóng đá mạnh khác trên thế giới (như Brasil, Đức, Hà Lan... chưa từng có huy chương vàng Olympics), Liên Xô nói riêng và các nước Đông Âu nói chung, trong giai đoạn sau Chiến tranh thế giới thứ 2 đến khi Liên Xô tan rã, khá chú trọng đến việc tham dự Thế vận hội Mùa hè. Chỉ ngay lần tham dự thứ hai (1956), Liên Xô với đội hình gồm những cầu thủ chủ chốt sẽ giành chức vô địch châu Âu đầu tiên 4 năm sau đó (Lev Yashin, Igor Netto...) đã vô địch Thế vận hội Mùa hè sau khi thắng Nam Tư 1-0. Liên Xô còn giành hạng ba 3 lần liên tiếp (1972 đến 1980). Năm 1988 là lần cuối cùng Liên Xô tham dự một Thế vận hội Mùa hè, họ giành được ngôi vô địch thứ hai sau khi đánh bại Brasil 2-1.

Danh hiệu

  • Tập tin:UEFA European Cup.svg Vô địch châu Âu: 1 : Vô địch: 1960 : Á quân: 1964; 1972; 1988 *Bóng đá nam tại Olympic: : 1992 1956; 1988 : 1920 1972; 1976; 1980

Cầu thủ

Cầu thủ tiêu biểu

Các cầu thủ khoác áo đội tuyển nhiều nhất

10 cầu thủ khoác áo đội tuyển Liên Xô nhiều lần nhất trong lịch sử là:

Các cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất

10 cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển Liên Xô trong lịch sử là:

Các đội tuyển quốc gia từ các nước Liên Xô cũ

Sau khi Liên Xô tan rã, 15 nước Cộng hoà đều có 15 đội tuyển của riêng mình. Họ tham gia thi đấu trên đấu trường quốc tế với danh nghĩa đại diện các quốc gia độc lập. Theo vị trí địa lý, một số là thành viên của Liên đoàn bóng đá châu Âu, một số là thành viên của Liên đoàn bóng đá châu Á.

Thống kê sân nhà

Kể từ trận đấu đầu tiên của Liên Xô (với Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 16 tháng 11 năm 1924), đội đã thi đấu các trận đấu trên sân nhà tại nhiều sân vận động khác nhau.

:Số liệu thống kê chỉ bao gồm các trận đấu chính thức được FIFA công nhận.

Ghi chú:

  • Mặc dù chưa bao giờ được sử dụng bởi đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô cũng như đội tuyển bóng đá Olympic Liên Xô, Sân vận động Dinamo ở Minsk đã được chọn là sân vận động chính thức của Thế vận hội Mùa hè 1980.
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô** là đội tuyển bóng đá đại diện cho Liên Xô ở các giải đấu quốc tế. Đội tuyển bóng đá này đã từng tồn tại cho đến
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga** (, _natsionalnaya sbornaya Rossii po futbolu_) là đội tuyển bóng đá cấp quốc gia của Nga do RFU quản lý và thuộc Liên đoàn bóng đá châu Âu
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng đồng các quốc gia độc lập** là một đội tuyển quốc gia tạm thời của Liên đoàn bóng đá Liên Xô năm 1992. Họ được chấp thuận là
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina** (, tiếng Nga: Сборная Украины по футболу) là đội tuyển cấp quốc gia của Ukraina do Liên đoàn bóng đá Ukraina quản lý. Trận thi đấu quốc tế
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Bồ Đào Nha** () là đội tuyển bóng đá nam đại diện cho Bồ Đào Nha trên bình diện quốc tế, được quản lý bởi Liên đoàn bóng đá
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức** () là đội tuyển bóng đá nam quốc gia đại diện cho Đức tại các giải đấu bóng đá quốc tế kể từ năm 1908. Kể từ khi
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil** (tiếng Bồ Đào Nha: _Seleção Brasileira de Futebol_, **SBF**) là đội tuyển bóng đá quốc gia do Liên đoàn bóng đá Brasil quản lý và đại diện Brasil
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý** () là đội tuyển bóng đá quốc gia đại diện cho nước Ý thi đấu ở các giải bóng đá cấp châu lục và thế giới. Đội tuyển
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha** () là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và đại diện cho Tây Ban Nha trên bình diện quốc tế
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam** là đội tuyển bóng đá quốc gia đại diện cho Việt Nam thi đấu tại các giải đấu bóng đá quốc tế do Liên đoàn bóng đá
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Maroc**, có biệt danh "Những chú sư tử Atlas", là đội tuyển đại diện cho Maroc tại các giải đấu bóng đá nam quốc tế. Đội được quản lý
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Iran** là đội tuyển bóng đá nam đại diện cho Iran ở các giải đấu quốc tế kể từ trận đấu đầu tiên vào năm 1941. Đội được quản
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Gruzia** là đội tuyển cấp quốc gia của Gruzia do Liên đoàn bóng đá Gruzia quản lý. Sân nhà của đội là sân vận động Boris Paichadze Dinamo Arena
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Estonia** là đội tuyển cấp quốc gia của Estonia do Hiệp hội bóng đá Estonia quản lý. Họ thi đấu trận đấu quốc tế đầu tiên vào năm 1920.
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Kazakhstan** là đội tuyển cấp quốc gia của Kazakhstan do Liên đoàn bóng đá Kazakhstan quản lý. ## Thành tích tại các giải đấu ### Giải vô địch thế
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Belarus** là đội tuyển cấp quốc gia của Belarus do Liên đoàn bóng đá Belarus quản lý. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, Belarus có trận đấu đầu
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ** chính thức đại diện cho Bỉ tại các giải đấu bóng đá nam quốc tế kể từ trận đấu đầu tiên vào năm 1904. Đội tuyển thuộc thẩm
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** là đội tuyển bóng đá cấp quốc gia của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1954 đến 1976 được kế
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Trung Quốc** () là đội tuyển bóng đá nam đại diện cho nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại các giải đấu bóng đá quốc tế, được quản
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Colombia** (), có biệt danh **_Los Cafeteros_**, là đội tuyển bóng đá đại diện cho Colombia ở các giải bóng đá nam quốc tế và được quản lý bởi
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Kyrgyzstan** (tiếng Kyrgyz: Кыргыз Республикасынын улуттук курама командасы (_Kırgız Respublikasının uluttuk kurama komandası_); tiếng Nga: Сборная Киргизии по футболу (_Sbornaya Kirgizii po Futbolu_)) là đội tuyển cấp quốc gia
nhỏ|upright=1.5|phải|Azerbaijan (2010-10-08) **Đội tuyển bóng đá quốc gia Azerbaijan** (tiếng Azerbaijan: _Azərbaycan milli futbol komandası_) là đội tuyển cấp quốc gia của Azerbaijan do Hiệp hội các liên đoàn bóng đá Azerbaijan quản lý. ##
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Malaysia** (; ) là đội tuyển đại diện cho Malaysia tại các giải đấu bóng đá quốc tế và thuộc quyền quản lý của Hiệp hội bóng đá Malaysia
thumb|Đội tuyển bóng đá quốc gia Moldova (2015) **Đội tuyển bóng đá quốc gia Moldova** là đội tuyển cấp quốc gia của Moldova do Hiệp hội bóng đá Moldova quản lý. ## Thành tích tại
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Tajikistan** (, _Timi millii futboli Tojikiston_) là đội tuyển cấp quốc gia của Tajikistan do Liên đoàn bóng đá Tajikistan quản lý. Trận thi đấu quốc tế đầu tiên
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Litva** là đội tuyển cấp quốc gia của Litva do Liên đoàn bóng đá Litva quản lý. ## Thành tích tại giải vô địch thế giới * 1930 -
[[Sân vận động Quốc gia, Warszawa|Sân vận động Quốc gia Warszawa]] Đội tuyển bóng đá quốc gia Ba Lan năm 1921 Huấn luyện viên [[Fernando Santos (cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha)|Fernando Santos]] **Đội
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Latvia** () là đội tuyển cấp quốc gia của Latvia do Liên đoàn bóng đá Latvia quản lý. Trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Latvia
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Armenia** (tiếng Armenia: Հայաստանի ֆուտբոլի հավաքականը) là đội tuyển cấp quốc gia của Armenia do Liên đoàn bóng đá Armenia quản lý. Đội tuyển được thành lập sau sự
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Turkmenistan** () là đội tuyển cấp quốc gia của Turkmenistan do Hiệp hội bóng đá Turkmenistan quản lý. Trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Turkmenistan
**Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Liên Xô** là đội tuyển đại diện cho Liên Xô ở môn bóng đá nữ, do Liên đoàn bóng đá Liên Xô quản lý. Đội được thành lập
**Đội tuyển bóng chày quốc gia Cộng hòa Séc** là đội tuyển bóng chày đại diện Cộng hòa Séc tại các giải đấu quốc tế. Đội thường xuyên tham dự Giải vô địch bóng chày
phải|
Bản đồ các liên đoàn thành viên khu vực Dưới đây là **danh sách các đội tuyển bóng đá nữ quốc gia trên thế giới**, bao gồm các đội tuyển đang tồn tại hoặc đã
**Igor Ivanovich Dobrovolski** (, , _Ihor Ivanovych Dobrovolskyi_; sinh ngày 27 tháng 8 năm 1967) là một cựu tuyển thủ Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô, Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga,
**Valeriy Vasylyovych Lobanovskyi** (, __ ; , 6 tháng 1 năm 1939 - 13 tháng 5 năm 2002) là một huấn luyện viên bóng đá người Liên Xô-Ukraina. Ông là thạc sĩ thể thao Liên
**Igor Mikhailovich Shalimov** (); sinh ngày 2 tháng 2 năm 1969) là một huấn luyện viên bóng đá và cựu cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô và Nga thi đấu ở
**Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Nga** đã đại diện cho Nga trong giải bóng đá nữ quốc tế. Đội bóng được kiểm soát bởi Liên đoàn bóng đá Nga và liên kết với
**Trận chung kết giải vô địch bóng đá châu Âu 2024** là trận đấu cuối cùng của Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024, kì thứ 17 của giải đấu do UEFA tổ chức
**Đội tuyển bóng đá trong nhà quốc gia Tajikistan** (, _Timi Millii Futsoli Tojikiston_; ) đại diện cho Tajikistan tại các giải đấu bóng đá trong nhà quốc tế và được điều hành bởi Liên
**Oleh Valeriyovych Protasov** (tiếng Ukraina: Олег Валерійович Протасов; sinh ngày 4 tháng 2 năm 1964) là một cựu cầu thủ bóng đá người Ukraina và Liên Xô, từng thi đấu ở vị trí tiền đạo.
**Aleksandr Vladimirovich Mostovoi** (tiếng Nga: _Александр Владимирович Мостовой_) là một cựu tiền vệ tấn công của đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô và Nga. ## Xuất thân Mostovoi là người thành phố Lomonosov,
**Boris Paichadze Dinamo Arena**, trước đây có tên là **Sân vận động Quốc gia Boris Paichadze**, là một sân vận động ở Tbilisi, Gruzia và là sân nhà của Dinamo Tbilisi, đội tuyển bóng bầu
thumb|phải|
**Đội bóng Vàng vào năm 1953**
_hàng trước:_ [[Mihály Lantos, Ferenc Puskás, Gyula Grosics
_hàng sau:_ Gyula Lóránt, Jenő Buzánszky, Nándor Hidegkuti, Sándor Kocsis, József Zakariás, Zoltán Czibor, József Bozsik, László Budai
]] **Đội bóng Vàng**
**Vassily Sergeyevich Kulkov** (tiếng Nga: _Василий Сергеевич Кульков_; 11/6/1966- 10/10/2020) là một cựu tuyển thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô và Nga. Chơi ở các vị trí hậu vệ và tiền vệ.
**Bảng A của giải vô địch bóng đá thế giới 2018** sẽ diễn ra từ ngày 14 đến ngày 25 tháng 6 năm 2018. Bảng này bao gồm Nga, Ả Rập Xê Út, Ai Cập
**Trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 2018** là trận đấu bóng đá để xác định đội thắng của giải vô địch bóng đá thế giới 2018. Đây là trận chung kết
**Andrei Antanasovich Kanchelskis** (tiếng Nga: _Андрей Антанасович Канчельскис_; tiếng Ukraina: _Андрій Антанасович Канчельскіс_) là một cựu tuyển thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô và Nga. Anh là người Litva lai Ukraina. ##
**** (sinh ngày 22 tháng 5 năm 1968) là một cầu thủ bóng đá người Nga. ## Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Liên
**** (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1970) là một cầu thủ bóng đá người Nga. ## Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Liên
**Sân vận động Hrazdan** () là một sân vận động đa năng toàn chỗ ngồi ở Yerevan, Armenia. Sân được khánh thành vào năm 1970. Đây là sân vận động thể thao lớn nhất ở