✨Dian Fossey
Dian Fossey (; 16 tháng 1 năm 1932 – 27 tháng 12 năm 1985) là một nhà linh trưởng học, nhà bảo tồn động vật người Mỹ được biết đến qua việc đã thực hiện một cuộc nghiên cứu sâu rộng về loài khỉ đột núi trong thời gian từ năm 1966 cho đến lúc qua đời năm 1985. Bà đã tìm hiểu về chúng mỗi ngày trong những vùng rừng núi ở Rwanda, khởi nguồn từ sự khích lệ của nhà cổ sinh vật học Louis Leakey. Gorilla in the mist, cuốn sách được xuất bản hai năm trước khi chết của bà là một bản tường thuật về việc nghiên cứu khoa học loài khỉ đột tại Trung tâm Nghiên cứu Karisoke và phần sự nghiệp trước đó của mình. Cuốn sách đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên vào năm 1988.
Fossey được xem là một trong những nhà nghiên cứu linh trưởng lỗi lạc nhất trên thế giới, thành viên của tên gọi vẫn thường phổ biến "Trimates", nhóm các nhà khoa học nữ kiệt xuất vốn được Leakey cử đi để nghiên cứu các loài khỉ lớn không đuôi trong môi trường tự nhiên của chúng, cùng với Jane Goodall về tinh tinh thông thường và Biruté Galdikas về đười ươi.
Trong thời kỳ ở Rwanda, bà đã ủng hộ một cách tích cực cho các nỗ lực bảo tồn, chống đối mạnh mẽ nạn săn bắt trộm và du lịch trên sinh cảnh hoang dã đồng thời khiến cho thêm nhiều người công nhận về giống khỉ đột tinh khôn. Cả Fossey và những khỉ đột của bà đều là nạn nhân của đám đông; bà đã bị sát hại tàn nhẫn trong cabin của mình tại một trại biệt lập ở Rwanda vào tháng 12 năm 1985. Sự việc về sau được suy luận rằng có liên quan đến những nỗ lực bảo tồn của bà
Cuộc đời và sự nghiệp
Fossey sinh ra tại San Francisco, California, là con gái của Kathryn "Kitty" (nhũ danh Kidd), một người mẫu thời trang, và George E. Fossey III, một chuyên viên tư vấn bảo hiểm. Mẹ của bà đã tái hôn vào năm sau đó với một doanh nhân tên Richard Price. Cha của bà vẫn cố gắng giữ tiếp xúc với con nhưng đã bị mẹ bà ngăn cản lại và rồi mọi liên hệ đều bị cắt đứt. Cha dượng của Fossey, Richard Price, chưa bao giờ coi bà như con đẻ của mình. Ông không cho phép Fossey ngồi cùng bàn ăn với ông hay mẹ trong các bữa tối. Là người gắn chặt với kỷ luật hà khắc, Richard Price không hoặc hiếm khi hỗ trợ Fossey về mặt tinh thần. Phải chống chọi với sự bất an của bản thân, Fossey đã hướng sang động vật như là cách để được chấp nhận. Tình yêu của bà dành cho các loài vật khởi đầu từ thú nuôi đầu tiên là cá vàng và tiếp tục duy trì trong suốt phần đời còn lại. Từ chuyên môn tốt nghiệp của mình, Fossey đã bắt đầu sự nghiệp trong ngành phục hồi chức năng này. Bà đã thực tập tại nhiều bệnh viện khác nhau ở California và làm việc với các bệnh nhân bị lao. Fossey vốn trước từng là một người cưỡi ngựa đoạt giải, chính điều đó đã dẫn bà tới Kentucky năm 1955, và một năm sau đó nhận vào làm chuyên viên phục hồi chức năng tại Bệnh viện trẻ em khuyết tật Kosair ở Louisville.
Chính nhờ tính cách ngại ngùng và e dè của mình đã giúp Fossey có thể làm việc tốt với những đứa trẻ trong bệnh viện. Bà dần trở nên thân thiết hơn với nữ đồng nghiệp Mary White "Gaynee" Henry, thư ký giám đốc điều hành bệnh viện và là vợ của một trong các bác sĩ tại đây, Michael J. Henry. Vợ chồng Henry đã mời Fossey đến tham gia cùng họ trong trang trại riêng của mình. Tại đây bà được lao động hàng ngày với gia súc và trải nghiệm một bầu không khí gia đình trọn vẹn điều mà đã thiếu vắng trong suốt cuộc đời bà. Những lúc rảnh rỗi, bà thường theo đuổi tình yêu của mình với loài ngựa.
Hứng thú với châu Phi
Fossey đã phải gạt bỏ lời đề nghị của nhà Henry cho chuyến du lịch tới châu Phi vì không đủ khả năng tài chính. để du ngoạn châu Phi trong 7 tuần.
Sau khi học tiếng Swahili và dự qua một khóa về linh trưởng (nghiên cứu khoa học về các loài linh trưởng) trong thời gian tám tháng chờ cấp thị thực và tài trợ, Fossey đến Nairobi vào tháng 12 năm 1966. Với sự giúp đỡ của Joan Root và Leakey, Fossey đã thu thập được những món đồ dự trữ cần thiết cùng một chiếc Land Rover mui bạt cũ kỹ mà bà gọi là "Lily". Trên đường tới Congo, Fossey có ghé thăm Trung tâm nghiên cứu Gombe Stream để gặp Goodall và quan sát các phương pháp nghiên cứu của bà trên tinh tinh. Root đã dạy cho bà cách cơ bản để theo dấu khỉ đột, và Sanwekwe người lùng thú của ông cũng giúp đỡ nhiều trong trại của bà sau này. Vì điều kiện sống lều bạt chủ yếu dựa vào các thức đóng hộp, nên mỗi tháng một lần Fossey lại xuống núi, leo lên "Lily" và lái xe trong hai giờ tới làng Kikumba để bổ sung nhu yếu phẩm. Nhận khuyến cáo từ nhà chức trách Uganda không nên trở lại Congo, sau cuộc gặp với Leakey tại Nairobi, Fossey đã nhất trí với ông là bỏ qua lời khuyên của Đại sứ quán Mỹ để tái khởi động nghiên cứu trên vùng núi Virunga nhưng bên phần thuộc Rwanda. Fossey còn được người dân địa phương biết đến với cái tên Nyirmachabelli, hay Nyiramacibiri, tạm dịch là "Người phụ nữ sống một mình trên núi."
Khác với những khỉ đột phía bên Congo của dãy Virunga, khỉ đột của Karisoke chưa từng được tập thích nghi một phần nào trong chuyến nghiên cứu của Schaller và chỉ nhận biết con người là những kẻ săn trộm; điều đó đã khiến Fossey phải mất khá lâu mới có thể quan sát được chúng ở khoảng cách gần.
Nhiều sinh viên nghiên cứu đã phải bỏ đi sau khi không chịu nổi cái lạnh, tối tăm, và điều kiện lầy lội khủng khiếp xung quanh Karisoke trên những sườn dốc của dãy núi lửa Virunga, nơi mà lối đi thường phải phát qua những bụi cỏ cao gần 2 m bằng mã tấu.
Đương đầu với nạn săn trộm
Mặc dù việc săn bắn là bất hợp pháp trong vườn quốc gia của núi lửa Virunga tại Rwanda kể từ thập niên 1920, luật lại hiếm khi được thực thi bởi các nhân viên bảo tồn công viên; họ thường bị những kẻ săn trộm mua chuộc và lương trả còn thấp hơn cả những nhân viên gốc phi của Fossey. Mặt khác, đội bảo vệ chính thức của vườn quốc gia Rwanda, gồm 24 người, đã không phá được bất kỳ một chiếc nào trong cùng khoảng thời gian trên. Hai khỉ đột nhỏ này sau đó được nhân viên bảo vệ công viên núi Virunga chuyển tới Fossey để điều trị thương tích từ quá trình bắt giữ. Và với nỗ lực đáng kể, bà đã giúp cho chúng hồi phục gần như hoàn toàn. Bất chấp sự phản đối của Fossey, chúng vẫn bị đưa tới Cologne, sống chín năm trong điều kiện nuôi nhốt, và cả hai đều chết trong cùng một tháng.
Mặc dù những đàn khỉ đột cạnh tranh khác trong núi không thuộc phần nghiên cứu của Fossey vẫn thường thấy bị săn trộm khoảng từ năm đến mười lần liền và đã thôi thúc Fossey tự mở các cuộc tuần tra riêng chống lại, các đàn của bà chưa bao giờ là nạn nhân trực tiếp cho đến khi Digit, con khỉ đột thân thiết nhất bị giết vào năm 1978. Cuối năm đó, con lưng bạc cùng nhóm 4 với Digit mà Fossey đặt theo tên người bác "Uncle Bert" bị bắn thấu tim khi đang cố gắng bảo vệ đứa con trai Kweli khỏi bị tóm bởi nhóm thợ săn mà đã thông đồng với nhân viên bảo vệ vườn. Mẹ của Kweli, Macho, cũng bị giết trong lần phục kích này, nhưng Kweli đã không bị bắt nhờ sự giải cứu của Uncle Bert. Tuy nhiên, Kweli ba tuổi lại chết mòn trong đau đớn do bị hoại tử, vì vết đạn sượt của nhóm này.
Tuy nhiên, ngày nay, Quỹ Khỉ đột Quốc tế Dian Fossey lại khuyến khích du lịch, khi cho rằng sẽ giúp tạo nên một cộng động địa phương ổn định và bền vững để chuyên tâm cho việc bảo vệ loài khỉ đột và môi trường sống của chúng.
Bảo tồn môi trường sống
Fossey chịu trách nhiệm trong việc làm xét lại dự án của Cộng đồng châu Âu với mục đích chuyển đổi đất công viên thành các trang trại hoa cúc. Nhờ những nỗ lực của bà, ranh giới công viên đã hạ từ đường cao 3,000 mét xuống đường 2,500 mét. Những kẻ săn trộm thường rao bán tay của khỉ đột như những thứ bùa phép ma thuật cao quý hoặc dùng làm gạt tàn. Digit đã bị chặt đầu và hai bàn tay bị lấy để làm gạt tàn, với giá 20 đô la. Sau khi thi thể bị cắt xén của nó được tìm thấy bởi trợ lý nghiên cứu Ian Redmond, nhóm của Fossey đã bắt được một trong số kẻ giết hại. Hắn đã tiết lộ tên của năm kẻ đồng bọn khác, ba trong số đó đã bị tống giam.
Fossey sau đó đã thành lập Quỹ Digit (nay là Quỹ Khỉ đột Quốc tế Dian Fossey tại Mỹ) để quyên tiền cho các cuộc tuần tra chống săn bắt trái phép.
Fossey gặp các vấn đề về phổi ngay từ khi còn nhỏ và cho đến cuối đời lại chịu chứng giãn phế nang mãn tính do nhiều năm hút thuốc lá nặng. Khi mà căn bệnh suy nhược này dần tiến triển—trở nên trầm trọng thêm vì độ cao của núi và khí hậu ẩm ướt—Fossey ngày càng cảm thấy khó khăn hơn để đi nghiên cứu ngoài thực địa. Bà thường xuyên bị khó thở và phải cần sự trợ giúp của bình oxy khi leo trèo hoặc bộ hành đường dài.
Cái chết
Vào sáng sớm ngày 27 tháng 12 năm 1985, Fossey được phát hiện đã bị sát hại trong phòng ngủ của cabin riêng đặt tại rìa xa của trại nghiên cứu ở Virunga, Rwanda. Thi thể của bà được tìm thấy trong tư thế nằm ngửa gần hai chiếc giường nơi bà ngủ, cách chừng tính từ lỗ hổng mà rõ ràng của kẻ tấn công (hoặc nhóm) đã khoét lên tường cabin. Wayne Richard McGuire, trợ lý nghiên cứu cuối cùng của Fossey tại Karisoke, được gọi đến hiện trường bởi người giúp việc của bà và phát hiện bà đã bị đánh đập cho đến chết, thuật lại rằng "khi tôi cúi xuống để kiểm tra dấu hiệu sống của bà ý, tôi thấy khuôn mặt bà bị chẻ ra, theo đường chéo, bởi một nhát mã tấu."
Dòng cuối trong nhật ký của bà viết:
thumb|Phần mộ của Fossey tại Karisoke, kế bên là những người bạn khỉ đột của bà Fossey được chôn cất tại Karisoke, trong khu đất bà tự mình xây dựng dành riêng cho những người bạn khỉ quá cố. Bà được an táng trong nghĩa trang khỉ đột này bên cạnh Digit, và xung quanh là các con khác bị bọn săn trộm giết. Các buổi lễ tưởng niệm cũng đồng thời được tổ chức tại New York, Washington, và California.
Một bản di chúc dường như là của Fossey thể hiện ý muốn dành toàn bộ tài sản của mình (gồm cả thu nhập từ bộ phim Gorillas in the Mist) cho quỹ Digit để đảm bảo cho các hoạt động tuần tra chống săn trộm. Fossey không hề đề cập đến gia đình mình trong đó, và nó cũng không được ký. Mẹ của bà, Hazel Fossey Price, đã khiếu nại tài liệu này và đã thành công.
Hậu quả
Sau cái chết của Fossey, toàn bộ nhân viên của bà đều bị bắt giữ. Trong đó bao gồm Emmanuel Rwelekana, người lùng thú mới bị sa thải do cáo buộc đã cố gắng sát hại Fossey bằng một chiếc mã tấu, theo báo cáo chính phủ về phiên xử McGuire. Tất cả sau đó đều được trả tự do ngoại trừ Rwelekana, về sau bị phát hiện đã chết trong tù, được cho là treo cổ tự tử. và vì không có hiệp định dẫn độ nào giữa Mỹ và Rwanda, nên McGuire, người vẫn còn bị điều tra rộng rãi về tội lỗi, đã từ chối bản án của mình. Sau đó, McGuire hầu như không có thông báo công khai nào cho đến năm 2005, khi tin tức lộ ra rằng ông đã được chấp nhận vào làm cho bộ phận Y tế và Dịch vụ Nhân sinh của Bang Nebraska. Lời đề nghị sau đó đã bị rút lại vì phát hiện sự liên quan của ông đến vụ án Fossey.
Một vài cuốn sách theo sau sự việc, trong đó có tiểu sử về Fossey của Farley Mowat, Woman in the Mists (New York, NY: Warner Books, 1987), đã đưa ra các giả thuyết khác nhau về vụ sát hại bà gồm những ám chỉ cho rằng bà có thể đã bị giết bởi các lợi ích tài chính liên quan đến du lịch hoặc buôn lậu.
Tranh cãi
Fossey được báo cáo đã tiến hành bắt và giam giữ những người Rwanda mà bà nghi ngờ có hành vi săn trộm. Bà cũng bị cáo buộc đã dùng những cây tầm ma đầy gai để đánh vào tinh hoàn của một tên. Sau vụ giết hại, Mary Smith người biên tập về Fossey trên tạp chí National Geographic đã kể với Shlachter trong lần đến Mỹ rằng Fossey muốn "chất đầy theo những pháo nổ, đồ chơi rẻ tiền và các trò ảo thuật như là một phần của phương pháp mà bà dùng để lừa dụ những (người châu Phi) -- giữ họ ở thật xa."
Viết trên tờ The Wall Street Journal năm 2002, Tunku Varadarajan đã mô tả Fossey vào lúc cuối đời là sinh động, gây tranh cãi, và là "một kẻ nghiện rượu phân biệt chủng tộc khi coi những con khỉ đột của bà vẫn còn tốt đẹp hơn những người Phi Châu sống xung quanh chúng."
Thành tựu khoa học
Fossey đã làm nên những khám phá quan trọng về loài khỉ đột bao gồm cách các con cái truyền từ nhóm này sang nhóm khác trong nhiều thập kỷ, tiếng kêu, thứ bậc và quan hệ xã hội giữa các nhóm, hành vi hiếm thấy—giết con nhỏ, chế độ ăn, và quá trình chuyển hóa các chất dinh dưỡng. Nghiên cứu của Fossey được tài trợ bởi Tổ chức Wilkie và Leakey Home, với nguồn tiền chủ yếu đến từ Hội Địa lý Quốc gia.
Vào năm 1980, Fossey, với bằng tiến sỹ Đại học Cambridge tại Anh, được công nhận là chuyên gia hàng đầu thế giới về sinh lý và tập tính của khỉ đột núi, đã định nghĩa khỉ đột là "những con khổng lồ hiền lành, uy nghiêm, tính xã hội cao với những nhân cách riêng biệt, và có mối quan hệ gia đình vững chắc." Trung tâm Nghiên cứu Karisoke được điều hành bởi quỹ mới này và duy trì công việc giám sát và bảo vệ khỉ đột hàng ngày mà bà đã khởi xướng.
Shirley McGreal, một người bạn của Fossey, vẫn tiếp tục làm công tác bảo vệ loài linh trưởng thông qua các hoạt động tại Liên đoàn Bảo tồn Linh trưởng Quốc tế (IPPL) do tự mình sáng lập, một trong số ít những tổ chức động vật hoang dã mà theo Fossey là đã thúc đẩy có hiệu quả "bảo tồn tích cực".
Từ sau cái chết của Fossey cho đến nạn diệt chủng Rwanda năm 1994, Karisoke được chỉ đạo bởi các sinh viên cũ của bà, một vài trong số đó đã từng có sự chống đối. Bức vẽ miêu tả một nhóm khỉ đột với một con đang chạm tay lên mái tóc của bà trong lúc ghi chép nhật ký.
Tiểu sử
Virunga của Mowat, mà phiên bản tại Anh và Mỹ đặt là Woman in the Mists: The Story of Dian Fossey and the Mountain Gorillas of Africa, là cuốn sách tiểu sử đầu tiên về Fossey, và giữ vai trò như một đối trọng sâu sắc cho nhiều những thiếu sót trong câu chuyện tự thân của Fossey, được rút ra từ những bức thư thực và các mục ghi chép nhật ký của bà. Cuốn The Dark Romance of Dian Fossey của Harold Hayes đã được phát hành vào năm 1989 sau những cuộc phỏng vấn sâu rộng với những người từng sống và làm việc cùng Fossey. Trong sách, Hayes đã thể hiện bà dưới cái nhìn kém tích cực và lãng mạn hơn so với những tuyển tập ra mắt trước đó. Bộ phim Gorillas in the Mist đã dựa vào bài viết của Hayes trên tạp chí Life năm 1987, như ghi nhận trong danh sách đóng góp, thay vì cuốn hồi ký tự biên cùng tên của Fossey..
No One Loved Gorillas More (2005) của Camilla de la Bedoyere do National Geographic phát hành tại Mỹ và Palazzo Editions tại Anh. Gorilla Dreams: The Legacy of Dian Fossey được viết bởi nhà báo điều tra Georgianne Nienaber và xuất bản vào năm 2006. Tập truyện ký về Fossey này được kể dưới dạng như thể lời của bà từ thế giới bên kia. Fossey cũng xuất hiện nổi bật trong cuốn sách của cây bút tạp chí Vanity Fair, Alex Shoumatoff, có tên African Madness, khi ông mở rộng hơn về các hành vi gây tranh cãi của bà, ngụ ý rằng chính Fossey đã gây ra cái chết của mình do kiểu tương tác đầy kích động của bà với mọi người cả chung lẫn riêng. Tác giả cũng đăng một bài viết dài có nhan đề "The Fatal Obsession of Dian Fossey".
A Forest in the Clouds: My Year among the Mountain Gorillas in the Remote Enclave of Dian Fossey, của John Fowler, là tập truyện kể theo ngôi thứ nhất phản ánh cái nhìn từ bên trong trại của Dian Fossey. Tác giả đã mang đến một bức chân dung sống động và trung thực về tính cách thất thường của Fossey, sự đối xử tồi tệ của bà với các nhân viên và sinh viên nghiên cứu, và cả những tràng thịnh nộ do rượu cồn. Cuốn sách cũng cho thấy các công việc hàng ngày của trại, sự phụ thuộc của Fossey vào các sinh viên và phong trào đòi loại bỏ bà khỏi Karisoke trong những năm trước vụ sát hại tàn ác.
Truyền thông
Chương trình Kentucky Opera Visions, tại Louisville, đã sáng tác một vở opera về Fossey, lấy tên là Nyiramachabelli; ra mắt vào ngày 23 tháng 5 năm 2006.
Universal Studios đã mua bản quyền làm phim từ Gorillas in the Mist của Fossey vào năm 1985, còn Warner Bros. Studios thì mua bản quyền từ bài viết của Hayes, mặc dù nó bị chỉ trích dữ dội bởi Rosamond Carr. Và kết quả của cuộc chiến pháp lý giữa hai hãng là một thỏa thuận hợp tác cùng sản xuất. Các phần của tập truyện và bài báo của Hayes đã được chuyển thể vào bộ phim Gorillas in the Mist, với sự tham gia của Sigourney Weaver. Trong khi cuốn sách đã bao quát sự nghiệp khoa học của Fossey một cách rõ nét và bỏ qua chất liệu về đời sống riêng tư của bà, điển hình là mối quan hệ tình cảm với Bob Campbell; thì trong phim, vấn đề tình cảm với Campbell (do Bryan Brown thủ vai) đã tạo nên một phụ truyện quan trọng. Bài viết của Hayes trước đó đã miêu tả Fossey như một người phụ nữ bị ám ảnh với những con khỉ đột, và sẽ không dừng lại trước bất cứ thứ gì để bảo vệ chúng. Bộ phim còn bao gồm những cảnh Fossey đối phó không khoan nhượng với bọn săn trộm, chẳng hạn như cảnh bà châm lửa đốt nhà của chúng.
Trong bộ phim tài liệu năm 2011 của BBC: All Watched Over by Machines of Loving Grace, Adam Curtis đã sử dụng Fossey như một biểu tượng về ý thức hệ của sinh thái học, sự cân bằng của tự nhiên và những lợi dụng chính trị của phương tây thời hậu thuộc địa tại châu Phi..
Tháng 12 năm 2017, Dian Fossey: Secrets in the Mist, chương trình truyền hình nhiều tập dài ba giờ liền, đã được phát sóng trên kênh National Geographic. Chương trình đã kể một câu chuyện về cuộc đời, công việc, vụ giết hại và di sản để lại của Fossey; trong đó sử dụng các trích dẫn tư liệu gốc và ảnh tĩnh, các cuộc phỏng vấn với những người quen biết và từng làm việc với bà, cảnh quay tư liệu đặc biệt và phần phục dựng.
Danh mục chọn lọc
Sách
-
—— A Forest in the Clouds: My Year Among the Mountain Gorillas in the Remote Enclave of Dian Fossey |John Fowler |Pegasus Books |