✨Deinocheirus

Deinocheirus

Deinocheirus ( ; tiếng Hy Lạp: 'tay khủng khiếp') là một chi khủng long theropoda rất lớn, từng sống tại nơi ngày nay là Mông Cổ vào cuối kỷ Creta (thành hệ Nemegt, cách đây khoảng 70 triệu năm).

Phát hiện và đặt tên

thumb|left|[[Mẫu gốc]] Hóa thạch đầu tiên được phát hiện là một cặp chi trước rất lớn với vài mảnh xương sườn và đốt sống. Chúng được tìm thấy ngày 9 tháng 7 năm 1965 trong cuộc thám hiểm hỗn hợp Ba Lan-Mông Cổ tại Gobi do giáo sư Zofia Kielan-Jaworowska chỉ huy tại di chỉ Altan Ula III thuộc tỉnh Ömnögovi. Kết quả được Kielan-Jaworowska công bố năm 1966.

Deinocheirus được Halszka Osmólska và Ewa Roniewicz đặt tên năm 1970. Loài điển hình và loài duy nhất được đặt tên là Deinocheirus mirificus. Tên chi xuất phát từ tiếng Hy Lạp deinos (δεινός), nghĩa là "khủng kiếp", và cheir (χείρ), nghĩa là "tay". Tên loài (mirificus) từ tiếng Latin, nghĩa là "khác thường" hay "kỳ lạ", từ này được chọn vì "cấu trúc khác thường của chi trước."

Năm 2014, các nhà cổ sinh vật học mô tả thêm hai mẫu vật Deinocheirus phát hiện năm 2006 và 2009 ở Mông Cổ. Một mẫu vật, MPC-D 100/127, lớn hơn cả mẫu gốc, với chi trước bên trái dài hơn 6%. MPC-D 100/128 lại nhỏ hơn, cả hai mẫu vật mới cho một bộ xương gần như hoàn chỉnh. Các tay săn hóa thạch trộm đã phát hiện hai bộ hóa thạch này. Xương hộp sọ và chân MPC-D 100/127 bị bán ở Nhật Bản, sau đó bán lại ở Đức. Năm 2011, nhà buôn hóa thạch người Pháp François Escuillé kiếm được chúng và tặng cho Viện Khoa học tự nhiên Hoàng gia Bỉ và chúng được trả về Mông Cổ vào tháng 5 năm 2014.

Mô tả

thumb|left|alt=Size comparison|So sánh kích thước với người. Phần được bảo quản tốt nhất của mẫu gốc Deinocheirus là chi trước, dài — xương cánh tay 938 mm, xương gánh 688 mm và bàn tay 770 mm — gồm cả vuốt cong dài . Mỗi xương bả quạ của đai vai dài 153 cm. Cổ cũng phải rất lớn: mỗi xương mang sừng dài đến 42 cm. Năm 2010, Paul sửa lại chiều dài thành 10 mét và khối lượng 2 tấn.

Cũng năm 2010, Phil Senter và H.J. Robins thử ước tính chiều cao tới hông của Deinocheirus. Bằng cách nghiên cứu các loài Theropoda hoàn chỉnh hơn, họ kết luận rằng chiều dài xương bả vai có thể dùng để tính chính xác chiều cao tại hông tốt hơn là dùng xương cánh tay. Senter và Robins đã xác định Deinocheirus cao - ngang hông. Điều này khiến nó trở thành Theropoda cao nhất, cao hơn cả những loài thú săn mồi đương thời như Tarbosaurus. thumb|left|Khung xương phục dựng của mẫu gốc, [[Bảo tàng Lịch sử Tự Nhiên, London|Bảo tàng lịch sử tự nhiên, London]] Mặc dù các chi trước của Deinocheirus có kích thước tuyệt đối đáng kể, là dài nhất trong số các loài Theropoda đã biết, chỉ trừ Therizinosaurus, nhưng chúng là không quá dài so với xương đai vai, so tỉ lệ thì nhỏ hơn hầu hết các loài Ornithomimosauria. Xương vai dài và dẹp. Xương cánh tay cũng mảnh. Xương gánh và xương quay quá dài và không liên kết tốt với nhau bằng dây chằng. Xương bàn tay khá dài so với ngón. Bàn tay có độ linh động tốt so với cẳng tay, nhưng chỉ có thể gập lại hạn chế. Các ngón tay có chiều dài gần tương đương với nhau, ngón đầu tiên là mập nhất, còn ngón thứ hai là dài nhất. Chỉ có vuốt của ngón thứ hai chi trái được bảo tồn nguyên vẹn; nó có đường kính 196 mm và chiều dài dọc theo độ cong ngoài bằng 323 mm. Nó là động vật đi hai chân, dáng đi tương đối thẳng, chưng ra trên lưng các chỏm gai đốt sống có chiều cao tới 8,5 lần chiều cao thân đốt sống, gần như đạt được tỉ lệ cao nhất thấy ở Spinosaurus. Các chỏm gai này có lẽ được chuyên biệt hóa để đỡ phần bụng từ hai hông khi xét tới sự hiện diện có thể có của một hệ thống dây chằng liên chỏm gai phức tạp. Các đốt sống sau chứa đầy không khí. Đuôi khá ngắn và có lông vũ, được đỡ bởi xương bánh lái gồm ít nhất là hai đốt sống đuôi hợp nhất. Hộp sọ không răng. Sọ khá mỏng, dày 6 mm. Các đặc điểm nguyên thủy bao gồm vuốt uốn cong, tỉ lệ giữa xương vai/xương cánh tay thấp, thiếu khớp dây chằng, phần bướu lồi phía sau của xương quạ ngắn, tổng chiều dài đốt hai và đốt ba của ngón tay thứ ba là lớn hơn chiều dài của đốt một. Yoshitsugu Kobayashi và Rinchen Barsbold thêm Deinocheirus vào nhiều nghiên cứu phát sinh chủng loài Theropoda và không giải quyết được mối quan hệ chính xác của nó nhưng ghi nhận thêm vài bằng chứng rằng nó là Ornithomimosauria. Các bằng chứng gồm bàn tay ngắn, xương bàn tay dẹt và vuốt thuôn dài.

Biểu đồ nhánh dưới đây lấy theo phân tích của Yuong-Nam Lee, Rinchen Barsbold, Philip J. Currie, Yoshitsugu Kobayashi, Hang-Jae Lee, Pascal Godefroit, François Escuillié & Tsogtbaatar Chinzorig (2014).

Cổ sinh vật học

Deinocheirus được phán đoán là động vật ăn tạp vì số lượng lớn sỏi dạ dày ở khoang bụng của nó, cũng như cá hóa thạch trong dạ dày. Có lẽ Deinocheirus sống ban ngày. G.S. Paul không tán thành, cho rằng móng quá cùn để giết chóc nhưng là vật phòng thủ tốt. Nhà cổ sinh vật học người Nga Rozhdestvensky so sánh chi trước Deinocheirus với con lười, đặc ra giả thuyết Deinocheirus là khủng long thích ứng leo cây, ăn trái và lá cây, đôi khi ăn trứng và động vật nhỏ tìm thấy trên đó. Rozhdestvensky tưởng tượng Deinocheirus có thân và chân sau không dài hơn chân trước, nhưng không có bằng chứng và giả thuyết leo trèo không được các nhà khoa học khác ủng hộ. nhỏ|Móng vuốt phục dựng Năm 1988 Paul đưa ra giả thuyết Deinocheirus ăn cỏ. Chia sẻ môi trường sống với các loài khủng long khổng lồ cùng thành hệ Nemegt, như Titanosauria (Opisthocoelicaudia), Hadrosauria (SaurolophusBarsboldia), cũng như Therizinosaurus. Senter & Robins kết luận rằng Deinocheirus ăn lá trên tầng cây cao.

Năm 2012, Phil R. Bell, Philip J. Currie, và Yuong-Nam Lee tìm thấy các vết thương trên mẫu vật Deinocheirus. Vết cắn của Tarbosaurus trên xương sườn bụng Deinocheirus. Kích cỡ và hình dạng cho thấy đó là Tarbosaurus chứ không phải tyrannosauria nào khác trong vùng.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Deinocheirus_** ( ; tiếng Hy Lạp: 'tay khủng khiếp') là một chi khủng long theropoda rất lớn, từng sống tại nơi ngày nay là Mông Cổ vào cuối kỷ Creta (thành hệ Nemegt, cách đây
**_Gallimimus_** (/ˌɡælɪˈmaɪməs/ GAL-i-MY-məs) là một chi khủng long chân thú sống ở nơi bây giờ là Mông Cổ vào cuối kỷ Phấn trắng, khoảng 70 triệu năm trước (mya). _Gallimimus_ là loài ornithomimid lớn nhất
Dưới đây là **danh sách toàn bộ các chi khủng long** **đã biết** thuộc liên bộ Dinosauria, trừ lớp Aves (chim). Danh sách này bao gồm cả những chi mà bây giờ không được xem