✨Đậu mùa
Đậu mùa là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi hai biến thể virus, Variola major và Variola minor. Đậu mùa có tên gọi tiếng Latinh là variola hay variola vera, trong đó từ varius có nguồn gốc nghĩa là "có nốt", hoặc varus, nghĩa là "mụn nhọt". Trong tiếng Anh, danh từ "smallpox" được sử dụng đầu tiên vào thế kỷ 15 để phân biệt với biến dạng "great pox" (bệnh giang mai).
Đậu mùa gây bệnh trong các mạch máu nhỏ ở da, miệng và cổ họng. Ở vùng da, bệnh gây ra những vết ban nổi sần đỏ đặc trưng, sau đó da bị phồng rộp những vết sần chứa nước. Virus V major độc hại hơn, gây tử vong trong số 30-35% bệnh nhân. V minor gây dạng bệnh nhẹ hơn, giết khoảng 1% bệnh nhân. Biến chứng lâu dài của việc nhiễm V major là các sẹo rỗ đặc trưng trên da, thường là ở mặt, ở 65-85% số nạn nhân. Nạn nhân cũng có thể bị mù vì giác mạc bị sẹo. Phái nam còn có thể bị hiếm muộn. Biến dạng ở các chi do chứng viêm khớp và viêm khớp xương mãn tính là biến chứng ít gặp hơn, xuất hiện ở khoảng 2-5% các trường hợp nhiễm bệnh.
Lịch sử
Đậu mùa xuất hiện vào khoảng 10.000 năm trước Công nguyên. Căn bệnh này đã giết chết khoảng 400.000 người dân châu Âu mỗi năm trong những năm cuối thế kỷ 18, trong đó có 5 quốc vương đương tại vị. Bệnh này cũng và là nguyên nhân của 1/3 trường hợp bị mù. Khoảng 20-60% số những người nhiễm bệnh, trong đó có khoảng hơn 80% là trẻ em, bị tử vong. Hậu quả là 300-500 triệu người đã chết vì bệnh đậu mùa vào thế kỷ 20. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước lượng riêng năm 1967 có khoảng 15 triệu người nhiễm bệnh và 2 triệu người tử vong.
Sau chiến dịch chủng đậu vắc-xin kéo dài từ thế kỷ 19 đến thế kỷ 20, WHO chứng nhận đã tiêu diệt được bệnh đậu mùa vào năm 1979.
Dịch bệnh xuất hiện
thumb|upright|Tượng của [[Sopona, vị thần được cho là gây ra dịch bệnh trong tôn giáo Yoruba]] Bằng chứng lâm sàng đáng tin cậy sớm nhất về bệnh đậu mùa được tìm thấy trong các mô tả về căn bệnh giống đậu mùa trong các tác phẩm y học từ Ấn Độ cổ đại (sớm nhất là năm 1500 trước Công nguyên), và Trung Quốc (năm 1122 trước Công nguyên), cũng như một nghiên cứu về xác ướp của vua Ai Cập là Ramses V, người đã chết cách đây hơn 3100 năm (1145 TCN). Tại Nhật Bản, dịch bệnh năm 735–737 được cho là đã giết chết một phần ba dân số. Ít nhất bảy vị thần tôn giáo đã được gán với riêng cho bệnh đậu mùa, chẳng hạn như thần Sopona trong tôn giáo Yoruba ở Tây Phi. Ở Ấn Độ, nữ thần đậu mùa của đạo Hindu, Shitala, được thờ trong các ngôi đền trên khắp đất nước.
Một quan điểm khác cho rằng bệnh đậu mùa chỉ xuất hiện vào năm 1588 sau công nguyên, và các trường hợp được báo cáo trước đó đã được xác định không chính xác là bệnh đậu mùa.
Thời gian xuất hiện của bệnh đậu mùa ở châu Âu và tây nam châu Á cũng không rõ ràng. Bệnh đậu mùa không được mô tả rõ ràng trong Cựu ước hay Tân ước của Kinh thánh, hoặc trong văn học của người Hy Lạp hoặc La Mã. Trong khi một số người đã xác định bệnh dịch ở Athens - được cho là bắt nguồn từ "Ethiopia" và Ai Cập - hoặc bệnh dịch đã phá hủy cuộc bao vây Syracuse năm 396 trước Công nguyên của Carthage - với bệnh đậu mùa,
Thời Trung cổ và cận đại
Bệnh dịch Antonine đã quét qua Đế chế La Mã vào giai đoạn 165–180 SCN, đó có thể là do bệnh đậu mùa gây ra Thánh Nicasius của Rheims đã trở thành vị thánh bảo trợ cho các nạn nhân đậu mùa vì được cho là đã sống sót sau một cơn bệnh vào năm 450,
Trong thời Trung cổ, một số vụ bùng phát bệnh đậu mùa đã xảy ra ở châu Âu. Tuy nhiên, bệnh đậu mùa đã không lan nhanh ở đó cho đến khi sự gia tăng dân số và tính di động nhân khẩu được đánh dấu bởi các cuộc Thập tự chinh cho phép nó làm như vậy. Vào thế kỷ 16, bệnh đậu mùa đã có mặt tại hầu hết các nước châu Âu, Bệnh đậu mùa lây nhiễm vào đảo Hispaniola thuộc vùng Caribê vào năm 1507, và vào lục địa châu Mỹ năm 1520, khi những người định cư Tây Ban Nha từ Hispaniola đến Mexico, vô tình mang theo bệnh đậu mùa với họ. Bởi vì cư dân châu Mỹ bản địa không có khả năng miễn dịch đối với căn bệnh mới này, các dân tộc của họ đã bị tiêu diệt hàng loạt bởi dịch bệnh. Sự mất mát dân số lớn như vậy là một yếu tố quan trọng trong việc người Tây Ban Nha thành công trong việc chinh phục của người Aztec và người Inca. và sau đó là những người được sinh ra tại thuộc địa. Tỷ lệ tử vong trong các đợt bùng phát ở các cộng đồng người Mỹ bản địa cao tới 90%.
Bệnh đậu mùa đã được đưa tới châu Úc vào năm 1789 và một lần nữa vào năm 1829, Mặc dù bệnh đậu mùa chưa bao giờ là bệnh đặc hữu trên lục địa Úc,
thumb|right|Số ca nhiễm đậu mùa trên toàn cầu, từ 1920 tới 2016. Vào giữa thế kỷ 18, đậu mùa là một căn bệnh lưu hành phổ biến ở khắp mọi nơi trên thế giới ngoại trừ ở Úc và các hòn đảo nhỏ chưa bị động đến bởi các hoạt động thăm dò từ bên ngoài. Ở châu Âu thế kỷ 18, bệnh đậu mùa là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, giết chết khoảng 400.000 người châu Âu mỗi năm. Có tới 10 phần trăm trẻ sơ sinh Thụy Điển chết vì bệnh đậu mùa mỗi năm, với những gợi ý sớm nhất về phương pháp này đã có ở Trung Quốc trong thế kỷ thứ 10. Ở Trung Quốc thời đó, vảy của người bị đậu mùa được phơi khô, nghiền thành dạng bột đã được thổi bay lên mũi của những người khỏe mạnh. Mọi người sau đó sẽ bị mắc thể nhẹ của bệnh và từ đó miễn dịch với nó. Kỹ thuật này có tỷ lệ tử vong khoảng 0,5–2,0%, nhưng tỷ lệ đó thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ tử vong 20–30% của chính căn bệnh này. Hai báo cáo về thực hành cấy mầm bệnh của người Trung Quốc đã được Hiệp hội Hoàng gia Anh ở London nhận được vào năm 1700; một của Tiến sĩ Martin Lister, người đã nhận được báo cáo của một nhân viên của Công ty Đông Ấn đóng tại Trung Quốc và một người khác bởi Clopton Havers. Voltaire (1742) báo cáo rằng người Trung Quốc đã thực hành cấy mầm bệnh đậu mùa từ "hàng trăm năm nay". Biện pháp này cũng đã được chứng kiến ở Thổ Nhĩ Kỳ bởi quý cô Mary Wortley Montagu, người sau đó đã giới thiệu nó ở Anh.
Đề cập ban đầu về khả năng diệt trừ bệnh đậu mùa đã được đề cập đến trong công trình của Johnnie Notions, một người cấy mầm bệnh đậu mùa tự học đến từ Shetland, Scotland. Biện pháp này đã thành công trong việc điều trị cho mọi người từ ít nhất là cuối những năm 1780 thông qua một phương pháp do chính ông nghĩ ra mặc dù không có nền tảng y tế chính thức. Phương pháp của ông là cho mủ đậu mùa tiếp xúc với khói than bùn, chôn nó xuống đất với long não trong tối đa 8 năm, sau đó dùng dao rạch một vết nhỏ trên tay rồi trét chất này vào, và dùng lá bắp cải đắp lên vết rạch. Ông nổi tiếng là không để mất một bệnh nhân nào.
thumb|Tiêm vắc xin trong Chương trình Xóa sổ Bệnh đậu mùa và Kiểm soát Bệnh Sởi ở [[Niger, 1969]] Bác sĩ người Anh Edward Jenner đã chứng minh hiệu quả của việc tiêm chủng đậu mùa trong việc bảo vệ con người khỏi bệnh đậu mùa vào năm 1796, sau đó nhiều nỗ lực đã được thực hiện để loại bỏ bệnh đậu mùa trên quy mô khu vực. Ở Nga vào năm 1796, đứa trẻ đầu tiên được tiêm chủng đậu mùa đã được Ekaterina II của Nga ban cho cái tên "Vaccinov", và được giáo dục bằng ngân khố của quốc gia.
Việc giới thiệu vắc-xin đến châu Mỹ diễn ra tại Trinity, Newfoundland vào năm 1800 bởi Tiến sĩ John Clinch, người bạn thời thơ ấu và đồng nghiệp y tế của Jenne. Ngay từ năm 1803, Hoàng gia Tây Ban Nha đã tổ chức các cuộc thám hiểm Balmis để vận chuyển vắc xin đến các thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mỹ và Philippines, đồng thời thiết lập các chương trình tiêm chủng hàng loạt ở đó. Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật vắc-xin năm 1813 để đảm bảo rằng vắc-xin đậu mùa an toàn sẽ được cung cấp cho công chúng Hoa Kỳ. Vào khoảng năm 1817, một chương trình tiêm chủng của nhà nước rất vững chắc đã tồn tại ở Đông Ấn Hà Lan (nay là Indonesia).
Vào ngày 26 tháng 8 năm 1807, Bavaria trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới áp dụng tiêm chủng bắt buộc. Baden tiếp theo vào năm 1809, Phổ vào năm 1815, Württemberg năm 1818, Thụy Điển năm 1816 và Đế chế Đức năm 1874 thông qua Đạo luật Tiêm chủng của Reichs (Đế chế) Tại Lutheran Thụy Điển, các giáo sĩ Tin lành đã đóng vai trò tiên phong trong việc tự nguyện tiêm phòng bệnh đậu mùa ngay từ năm 1800. Lần tiêm chủng đầu tiên được thực hiện ở Liechtenstein vào năm 1801, và từ năm 1812, việc tiêm chủng là bắt buộc.
Tại Ấn Độ thuộc Anh, một chương trình đã được triển khai để tuyên truyền việc tiêm phòng bệnh đậu mùa, thông qua các bác sĩ tiêm chủng Ấn Độ, dưới sự giám sát của các quan chức châu Âu. Tuy nhiên, các nỗ lực tiêm chủng của Anh ở Ấn Độ và đặc biệt là ở Miến Điện, đã bị cản trở bởi sự không tin tưởng vào tiêm chủng của người bản địa, bất chấp luật pháp cứng rắn, những cải thiện về hiệu quả của vắc-xin và chất bảo quản vắc-xin, và các nỗ lực giáo dục tại địa phương. Đến năm 1832, chính phủ Hoa Kỳ thiết lập chương trình tiêm phòng bệnh đậu mùa cho người châu Mỹ bản địa. Năm 1842, Vương quốc Anh cấm việc cấy mủ đậu mùa theo phương pháp truyền thống, sau đó tiến tới việc tiêm chủng bắt buộc. Chính phủ Anh đã áp dụng việc tiêm phòng bệnh đậu mùa bắt buộc theo Đạo luật của Nghị viện vào năm 1853.
Tại Hoa Kỳ, từ năm 1843 đến năm 1855, Massachusetts là bang đầu tiên và sau đó là các tiểu bang khác bắt buộc tiêm chủng bệnh đậu mùa. Mặc dù một số người không thích những biện pháp này,
thumb|left|Lệnh cách ly do đậu mùa, California, năm 1910
Nỗ lực đầu tiên trên toàn bán cầu nhằm loại trừ bệnh đậu mùa được thực hiện vào năm 1950 bởi Tổ chức Y tế Liên châu Mỹ. Chiến dịch đã thành công trong việc loại bỏ bệnh đậu mùa ở tất cả các nước châu Mỹ ngoại trừ Argentina, Brazil, Colombia và Ecuador. Vào thời điểm này, 2 triệu người chết vì bệnh đậu mùa mỗi năm. Nhìn chung, tiến trình xóa sổ đậu mùa là khá chậm, đặc biệt là ở châu Phi và ở tiểu lục địa Ấn Độ. Năm 1966, một đội quốc tế, Đơn vị Diệt trừ Bệnh đậu mùa, được thành lập dưới sự lãnh đạo của Donald Henderson. Năm 1967, Tổ chức Y tế Thế giới tăng cường công tác thanh toán bệnh đậu mùa trên toàn cầu bằng cách đóng góp 2,4 triệu đôla hàng năm cho nỗ lực này, và áp dụng phương pháp giám sát dịch bệnh mới do nhà dịch tễ học người Séc Karel Raška đề xướng.
thumb|upright|Bé gái 3 tuổi [[Rahima Banu tại Bangladesh và người cuối cùng mắc đậu mùa thể nặng một cách tự nhiên, năm 1975.]] Vào đầu những năm 1950, ước tính có khoảng 50 triệu trường hợp mắc bệnh đậu mùa xảy ra trên thế giới mỗi năm. Quá trình này được gọi là "tiêm chủng vòng vây". Chìa khóa của chiến lược này là giám sát các trường hợp trong một cộng đồng (được gọi là giám sát) và ngăn chặn.
Vấn đề ban đầu mà WHO gặp phải là việc báo cáo không đầy đủ về các trường hợp đậu mùa, vì nhiều trường hợp không được các cơ quan chức năng quan tâm. Thực tế là con người là ổ chứa duy nhất cho bệnh đậu mùa, và việc không còn người mang mầm bệnh đã đóng một vai trò quan trọng trong việc loại trừ bệnh đậu mùa. WHO đã thiết lập một mạng lưới các chuyên gia tư vấn hỗ trợ các quốc gia thiết lập các hoạt động giám sát và ngăn chặn. Ban đầu, việc tài trợ vắc xin chủ yếu do Liên Xô và Hoa Kỳ cung cấp, nhưng đến năm 1973, hơn 80% tổng số vắc xin đã được sản xuất ở các nước đang phát triển.
Lần bùng phát bệnh đậu mùa thể nặng cuối cùng ở châu Âu là vào năm 1972 ở Nam Tư, sau khi một người hành hương từ Kosovo trở về từ Trung Đông, nơi anh ta đã bị nhiễm virus. Dịch đã lây nhiễm cho 175 người, làm 35 người chết. Các nhà chức trách tuyên bố thiết quân luật, thực hiện kiểm dịch và tiến hành tiêm chủng rộng rãi trong dân chúng, nhờ sự giúp đỡ của WHO. Trong hai tháng, đợt bùng phát đã kết thúc. Trước đó, đã có một đợt bùng phát bệnh đậu mùa vào tháng 5 - tháng 7 năm 1963 tại Stockholm, Thụy Điển, do một thủy thủ Thụy Điển lây bệnh từ Viễn Đông; đợt dịch này đã được xử lý bằng các biện pháp kiểm dịch và tiêm chủng cho người dân địa phương.
Đến cuối năm 1975, bệnh đậu mùa chỉ tồn tại ở vùng Sừng Châu Phi. Điều kiện rất khó khăn ở Ethiopia và Somalia, những nơi có rất ít đường xá. Nội chiến, nạn đói và người tị nạn khiến nhiệm vụ càng trở nên khó khăn hơn. Một chương trình giám sát, ngăn chặn và tiêm chủng chuyên sâu đã được thực hiện ở các nước này vào đầu và giữa năm 1977, dưới sự chỉ đạo của nhà vi sinh vật người Úc Frank Fenner. Khi chiến dịch gần đạt được mục tiêu, Fenner và nhóm của ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc xác minh. Trường hợp bệnh đậu mùa bản địa xảy ra tự nhiên cuối cùng (Đậu mùa thể nhỏ) được chẩn đoán ở Ali Maow Maalin, một đầu bếp bệnh viện ở Merca, Somalia, vào ngày 26 tháng 10 năm 1977. Janet Parker là Người cuối cùng chết vì bệnh đậu mùa, xảy ra sau khi cô nhiễm phải virus từ một nguồn phòng thí nghiệm ở Birmingham, Vương quốc Anh.
Việc xóa sổ bệnh đậu mùa trên toàn cầu đã được chứng nhận dựa trên các hoạt động xác minh ráo riết, bởi một ủy ban gồm các nhà khoa học lớn vào ngày 9 tháng 12 năm 1979, và sau đó được Đại hội đồng Y tế Thế giới thông qua vào ngày 8 tháng 5 năm 1980. Hai câu đầu tiên của nghị quyết:
Những trường hợp đáng chú ý
thumb|Năm 1767, nhà soạn nhạc 11 tuổi [[Wolfgang Amadeus Mozart đã sống sót sau một trận dịch đậu mùa ở Áo đã giết chết Hoàng hậu La Mã Thần thánh Maria Josepha, người vợ thứ hai của Hoàng đế La Mã Thần thánh Joseph II chết vì căn bệnh này, cũng như Nữ công tước Maria Josepha của Áo (Xem Mozart và bệnh đậu mùa)]]
Nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng từng mắc bệnh đậu mùa, ví dụ như tộc trưởng bộ lạc Lakota là Sitting Bull, vua Ai Cập Ramses V, các hoàng đế Thuận Trị (chết năm 1661), Khang Hi (khỏi bệnh) và Đồng Trị (chết năm 1875) của nhà Thanh, Thiên hoàng Komei của Nhật (chết do đậu mùa vào năm 1867), lãnh chúa Date Masamune của Nhật (bị mù một mắt do đậu mùa). Cuitláhuac, tlatoani (người cai trị) thứ 10 của thành phố Tenochtitlan thuộc đế chế Aztec, chết vì đậu mùa năm 1520, ít lâu sau khi bệnh này được người châu Âu mang tới châu Mỹ, và hoàng đế Huayna Capac của đế chế Inca chết năm 1527 (là nguyên nhân gây ra một cuộc nội chiến giành quyền kế vị trong đế chế Inca và cuối cùng là sự xâm chiếm của người Tây Ban Nha). Các nhân vật được công khai gần đây bao gồm Guru Har Krishan, Guru thứ 8 của đạo Sikh, chết năm 1664, Luis I của Tây Ban Nha chết năm 1724, Peter II của Nga chết năm 1730, George Washington (khỏi bệnh), Louis XV của Pháp chết năm 1774 và Maximilian III Joseph của Bavaria chết năm 1777.
Các gia tộc nổi tiếng trên khắp thế giới thường có một số người bị nhiễm bệnh và/hoặc thiệt mạng vì căn bệnh này. Ví dụ, một số người thân của vua Henry VIII của Anh đã sống sót sau căn bệnh này nhưng bị sẹo do nó gây ra. Những người này bao gồm chị gái Margaret Tudor của ông, người vợ Anne of Cleves, và hai con gái của ông: Mary I của Anh mắc bệnh năm 1527 và Elizabeth I mắc bệnh năm 1562. Elizabeth đã cố gắng ngụy trang những vết rỗ bằng lớp trang điểm đậm. Nữ hoàng Mary I của Scotland mắc bệnh khi còn nhỏ nhưng không để lại sẹo.
Ở châu Âu, những ca tử vong do bệnh đậu mùa đôi khi làm thay đổi hẳn một triều đại. Louis XV của Pháp đã kế vị cụ nội của mình là Louis XIV do hàng loạt cái chết vì bệnh đậu mùa hoặc bệnh sởi trong số những người lẽ ra được kế vị trước ông (gồm ông nội, cha, anh trai của ông). Chính ông đã chết vì căn bệnh này vào năm 1774. Peter II của Nga chết vì căn bệnh này khi mới 14 tuổi. Ngoài ra, trước khi trở thành hoàng đế, Peter III của Nga đã mắc phải bệnh này và rất đau đớn vì nó. Anh ta bị để lại sẹo và biến dạng mặt. Vợ ông, Catherine Đại đế, đã thoát khỏi nhưng nỗi sợ hãi về loại bệnh này rõ ràng đã ảnh hưởng đến bà. Bà lo sợ cho sự an toàn của con trai mình, Paul, đến nỗi bà ấy ngăn chặn những đám đông lớn không được tiếp xúc với Paul. Cuối cùng, cô đã quyết định cấy mầm đậu mùa vào cơ thể mình bởi một bác sĩ người Anh, Thomas Dimsdale. Đây là một phương pháp gây tranh cãi vào thời điểm đó, nhưng bà đã thành công. Paul sau đó cũng được cấy. Catherine sau đó đã tìm cách tiêm chủng trên khắp đế chế Nga và tuyên bố: "Mục tiêu của ta, qua ví dụ của ta, là để cứu vô số thần dân của ta, những người không biết giá trị của kỹ thuật này và sợ hãi nó, nên đã bị rơi vào tình trạng nguy hiểm." Đến năm 1800, khoảng 2 triệu lượt tiêm chủng đã được thực hiện tại Đế quốc Nga
Ở Trung Quốc, triều đại nhà Thanh đã có các chính sách rộng rãi để bảo vệ vùng Mãn Châu khỏi bệnh đậu mùa vốn khá phổ biến ở Bắc Kinh.
Các Tổng thống Hoa Kỳ George Washington, Andrew Jackson, và Abraham Lincoln đều từng mắc bệnh này và qua khỏi. Washington bị nhiễm bệnh đậu mùa trong một chuyến thăm Barbados năm 1751. Jackson phát bệnh sau khi bị người Anh bắt làm tù binh trong Cách mạng Hoa Kỳ, và mặc dù ông đã bình phục nhưng anh trai Robert của ông thì không.
Nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin bị bệnh đậu mùa khi mới 7 tuổi. Khuôn mặt ông có nhiều vết sẹo do căn bệnh quái ác gây ra. Sau đó, ông ấy đã chỉnh sửa các bức ảnh để làm cho vết sẹo của mình bớt rõ ràng hơn.
Nhà thơ Hungary Ferenc Kölcsey, người viết bài quốc ca Hungary, bị mất mắt phải vì bệnh đậu mùa.
Phân loại
Có hai chủng đậu mùa lâm sàng. Loại Variola major là dạng trầm trọng và thường gặp nhất, gây ra sự phát ban rộng hơn và sốt cao hơn, tỷ lệ tử vong cao tới 30%. Loại Variola minor ít gặp và ít trầm trọng hơn, với tỷ lệ tử vong vào khoảng 1% hoặc ít hơn. Giai đoạn nhiễm virus variola cận lâm sàng đã được chú ý đến, nhưng không thường gặp. thông thường, giảm nhẹ, ác tính và gây xuất huyết. Trong lịch sử, bệnh đầu mùa gây ra tỷ lệ tử vong vào khoảng 30%, trong đó hai dạng ác tính và gây xuất huyết thường gây chết người.
Đậu mùa thể thông thường
90% hoặc hơn số các ca bệnh đậu mùa gặp ở những người chưa tiêm chủng thuộc loại đậu mùa thông thường.
Đậu mùa thể thông thường hay tạo ra các vết ban riêng biệt, mà các nốt sần sau đó tách ra khỏi lớp da. Sự phân bổ các vết ban dày đặc nhất ở trên mặt, xuất hiện nhiều ở các chi hơn là trên thân mình; và ở các chi, lại dày hơn ở các điểm mút. Lòng bàn tay và lòng bàn chân thường nổi ban nhiều. Đôi khi, các chỗ phồng da kết lại với nhau, tạo nên vết ban giao nhau. Vết ban giao nhau làm bong lớp da ra khỏi lớp thịt nằm bên dưới. Bệnh nhân gặp phải các vết ban giao nhau thường vẫn trong tình trạng bệnh thậm chí sau khi lớp vảy đã hình thành. Tỷ lệ tử vong ở những người gặp phải vết ban là 62%. Đậu mùa ác tính thường đi kèm với giai đoạn tiền triệu kéo dài 3-4 ngày, sốt kéo dài và các triệu chứng nhiễm độc huyết trầm trọng. Vết ban phát triển ở lưỡi và vòm miệng. Các thương tổn ở da phát triển chậm. Vào ngày thứ bảy hay thứ tám, các thương tổn này xẹp đi và trông giống bị hằn vào da. Không giống đậu mùa thông thường, mụn nước chứa rất ít dịch, chạm vào thấy mềm và mỏng, và có thể chứa máu. Đậu mùa ác tính gần như luôn luôn gây tử vong. có bộ gen DNA dạng hai sợi, và có một vòng thắt lại ở mỗi đầu. Hai dạng đậu mùa cơ bản là variola major và variola minor.
Bốn loại virus thuộc chi Orthopoxvirus gây bệnh ở người là: Variola, vaccinia, cowpox (gây đậu mùa ở động vật) và monkeypox. Trong tự nhiên, virus variola chỉ gây bệnh ở người, dù động vật linh trưởng và các loài động vật khác cũng bị nhiễm bệnh ở môi trường thí nghiệm. Vaccinia, cowpox và monkeypox có thể gây bệnh ở cả người lẫn động vật.
Chu kỳ sống của các virus thuộc họ Poxviridae khá phức tạp vì có nhiều dạng gây truyền nhiễm, với cơ chế xâm nhập tế bào đa dạng. Virus họ này là duy nhất trong số các virus có DNA vì chúng không tái tạo trong nhân tế bào, mà là ở tế bào chất. Để tái tạo, các virus sản sinh ra nhiều loại protein đặc trưng mà các virus DNA khác không tạo ra được, trong đó protein quan trọng nhất là RNA polymer hóa dựa trên DNA của virus.
Cả hai loại virion (Hạt virus hoàn chỉnh hay dạng virus nghỉ ở bên ngoài tế bào chủ) có vỏ và không có vỏ đều lây nhiễm. Vỏ virus được làm bằng các màng Golgi chứa một loại polypeptit virus đặc biệt, bao gồm hemagglutinin.
Sự truyền bệnh
Bệnh lan truyền qua việc hít phải các virus variola trong không khí, thường từ các dịch từ vùng họng, mũi, niêm mạc họng của người nhiễm bệnh. Bệnh được truyền từ người sang người chủ yếu qua việc tiếp xúc mặt đối mặt kéo dài với người nhiễm bệnh, thường trong khoảng cách dưới 1,8m, nhưng cũng có thể bị truyền bệnh qua việc tiếp xúc trực tiếp với các dịch cơ thể bị nhiễm virus hoặc các đồ vật bị nhiễm bẩn như tấm trải giường hay quần áo. Đậu mùa hiếm khi gây lây nhiễm qua không khí trong không gian kín như tòa nhà, xe buýt, xe lửa.
Đậu mùa có tính lây nhiễm cao, nhưng thường với tốc độ chậm và ít rộng khắp hơn so với các bệnh truyền nhiễm do virus khác; có thể bởi vì bệnh chỉ lây nhiễm qua việc tiếp xúc gần và chỉ xảy ra sau khi vết ban đã xuất hiện. Tỷ lệ lây nhiễm cũng bị ảnh hưởng bởi thời gian ngắn trong giai đoạn lây nhiễm. Ở vùng ôn đới, số ca lây nhiễm đậu mùa đạt cao nhất vào mùa đông và mùa xuân. Ở khu vực nhiệt đới, bệnh xuất hiện khắp cả năm. Chẩn đoán nhiễm virus orthopoxvirus cũng có thể được thực hiện nhanh chóng bằng xét nghiệm qua kính hiển vi điện tử đối với dịch mủ hoặc vảy. Tất cả orthopoxvirus đều có hình viên gạch đặc trưng qua kính hiển vi điện tử. Chủng virus có thể được đặc trưng bởi phân tích phản ứng chuỗi polymerase (PCR) và hạn chế mảnh chiều dài đa hình (RFLP). Kiểm tra huyết thanh và xét nghiệm miễn dịch liên kết enzym (ELISA), để đo miễn dịch glubulin virus đậu mùa cụ thể và kháng nguyên cũng đã được phát triển để hỗ trợ trong việc chẩn đoán nhiễm bệnh.
Bệnh thủy đậu (chickenpox) thường bị nhầm lẫn với bệnh đậu mùa vào thời kỳ đầu. Hai bệnh này có thể được phân biệt bằng nhiều phương pháp. Không giống bệnh đậu mùa, bệnh thủy đậu thường không ảnh hưởng lên lòng bàn tay và lòng bàn chân. Thêm vào đó, mụn mủ của thủy đậu có nhiều kích cỡ khác nhau tùy thuộc vào thời gian phát ban, còn mụn mủ bệnh đậu mùa đều gần như cùng kích cỡ vì ảnh hưởng của virus phát triển đồng đều hơn. Có nhiều phương pháp thí nghiệm để phát hiện thủy đậu trong các trường hợp bệnh đậu mùa còn nghi vấn. và tiêm một mũi đậu mùa bột, hoặc rắc đậu mùa lên da nơi có vết xước. Tuy nhiên, ý tưởng rằng tiêm có nguồn gốc từ Ấn Độ đã là một thách thức đối vì được miêu tả trong các văn bản y học tiếng Phạn về quá trình tiêm. Việc cấy mầm bệnh đậu mùa ở Trung Quốc có thể được tìm thấy vào cuối thế kỷ 10, và quy trình được thực hiện rộng rãi vào thế kỷ 16 trong thời kỳ nhà Minh. Nếu thành công, tiêm sẽ tạo ra khả năng miễn dịch với đậu mùa. Tuy nhiên, phương pháp này yêu cầu cấy trực tiếp mủ của người bệnh đậu mùa (chứa virus đậu mùa đã suy yếu) vào người khác, nên người được cấy mầm bệnh có thể bị đậu mùa bởi chính việc cấy mủ này. Cấy mầm bệnh đậu mùa có tỷ lệ tử vong khoảng 0,5-2%, thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ tử vong từ 20-30% của chính bệnh này.
Kết quả thử nghiệm cung cấp bằng chứng thuyết phục cho thấy, hành động đưa một lượng nhỏ mầm bệnh không gây hại của bệnh truyền nhiễm vào cơ thể là cách để phòng tránh căn bệnh tương tự trong tương lai. Đây là nguyên tắc cơ bản của tiêm chủng vắc-xin.
Phương pháp "tiêm ngừa" của Jenner đã giúp châu Âu đẩy lùi đại dịch đậu mùa. Năm 1800, việc tiêm chủng trở nên phổ biến ở hầu hết các nước châu Âu và sau đó lan rộng ra toàn thế giới.
Đậu mùa trong lịch sử Việt Nam
Lịch sử Việt Nam có ghi lại một số những nhân vật chết vì bệnh đậu mùa. Trong đó có Hoàng tử Cảnh, người con cả của vua Nguyễn Thế Tổ (niên hiệu Gia Long). Hoàng tử Cảnh mất năm 22 tuổi, để lại một vợ và hai con. Vua Tự Đức cũng bị bệnh đậu mùa và bị vô sinh nên nhận một người con nuôi lên làm vua và chỉ tại vị được 3 ngày, đó là vua Dục Đức
Sử nhà Nguyễn cũng ghi hai nạn dịch lớn trước thời Pháp thuộc:
- "Năm Canh Thìn (1820) tháng 11 (âm lịch) bệnh dịch lan tràn, khởi đầu từ Hà Tiên đến Bắc Thành. Nhiều người chết. Nhà nước chẩn cấp cho dân tổng cộng 73 vạn quan tiền."
- "Năm Canh Tý (1840) tháng 9 (âm lịch) ở Sơn Tây từ mùa xuân đến mùa thu có hơn 4.900 người chết dịch."
Vết sẹo rậm trên da mặt thường là chứng tích của bệnh đậu mùa, tiếng Việt có chữ riêng để gọi: "rỗ".