✨Đại hỏa hoạn Smyrna

Đại hỏa hoạn Smyrna

thumb|Tựa đề của bài báo về vụ hỏa hạn trong tờ [[The New York Times ngày 17 tháng 9 năm 1922. Tạm dịch: Smyrna chỉ còn đống tro tàn.]]

Đại hỏa hoạn Smyrna hay thảm hoạ Smyrna (; ) là một vụ hỏa hoạn lớn xảy ra tại thành phố cảng Smyrna (İzmir, Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại) vào tháng 9 năm 1922. Các nhân chứng kể lại rằng lửa bắt đầu vào ngày 13 tháng 9 năm 1922 và kéo dài cho đến khi nó bị dập tắt ngày 22 tháng 9. Vụ hỏa hoạn xảy ra bốn ngày sau khi lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ giành lại quyền kiểm soát thành phố vào ngày 9 tháng 9, về cơ bản kết thúc cuộc chiến tranh Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ kéo dài hơn ba năm kể từ khi quân đội Hy Lạp đổ bộ vào Smyrna vào ngày 15 tháng 5 năm 1919. Số người Hy Lạp và Armenia tử vong do đám cháy nằm trong khoảng từ 10.000 đến 100.000 người, đồng thời phần lớn Smyrna bị phá hủy.

Khoảng 50.000 Hàng chục ngàn đàn ông Hy Lạp và Armenia (ước tính khác nhau từ 25.000 đến 100.000) sau đó đã bị trục xuất vào nội địa Anatolia, nơi nhiều người trong số họ đã chết trong điều kiện khắc nghiệt. Có nhiều báo cáo và lời khai khác nhau về người chịu trách nhiệm về hỏa hoạn; một số nguồn và học giả cho rằng nó là do binh lính Thổ Nhĩ Kỳ gây cháy nhà ở và cửa hàng Hy Lạp và Armenia, trong khi các nguồn tin thân Thổ Nhĩ Kỳ cho rằng người Hy Lạp và người Armenia đã bắt đầu cuộc hỏa hoạn nhằm phá hoại danh tiếng của người Thổ Nhĩ Kỳ. Các nguồn khác nhau nói người Hy Lạp hoặc người Thổ Nhĩ Kỳ chiếm phần lớn dân số thành phố. Theo Katherine Flemming, trong năm 1919–1922 số người Hy Lạp tại Smyrna vào khoảng 150.000, chiếm gần một nửa dân số thành phố, gấp đôi số người Thổ. Ngoài người Thổ và Hy Lạp, Smyrna còn có cộng đồng người Armenia, Do Thái và Levant đáng kể. Theo Trudy Ring, trước Thế chiến thứ nhất, số người Hy Lạp tại đây là 130.000 trong tổng số 250.000, không tính người Armenia và những người đạo Kitô khác.

Theo điều tra dân số của Đế quốc Ottoman năm 1905, có 100.356 người Hồi giáo, 73.636 người Chính thống giáo, 11.127 người Kitô giáo Armenia, và 25.854 người khác; năm 1914, con số được cập nhật thành 111.486 người Hồi giáo so với 87.497 người Chính thống giao Orthodox Christians.

Theo Henry Morgenthau, Đại sứ Hoa Kỳ tại Đế quốc Ottoman lúc bấy giờ, hơn một nửa dân số của Smyrna là người Hy Lạp. Lãnh sự Mỹ tại Smyrna lúc này, George Horton, viết rằng trước khi ngọn lửa diễn ra có 400.000 người sống tại thành phố Smyrna, trong đó có 165.000 người Thổ, 150.000 người Hy Lạp, 25.000 người Do Thái, 25.000 người Armenia, và 20.000 người nước ngoài—10.000 người Ý, 3.000 người Pháp, 2.000 người Anh, cùng 300 người Mỹ.

Ngoài ra, theo nhiều học giả, trước chiến tranh, thành phố này có nhiều người Hy Lạp hơn cả Athens, thủ đô của Hy Lạp. Người Ottomans thời đó gọi thành phố này là Infidel Smyrna (Gavur Izmir) do có nhiều người Hy Lạp và người không theo đạo Hồi.

Sự kiện

Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ tiến vào

thumb|upright=1.1|Bắt đầu đám cháy, nhìn từ Bella Vista ngày 13 tháng 9 năm 1922

Khi những tốp lính Hy Lạp cuối cùng rút khỏi Smyrna tối thứ sáu ngày 8 tháng 9, những thành phần đầu tiên của lực lượng của Mustafa Kemal, một sư đoàn kỵ binh Thổ Nhĩ Kỳ, tiến vào thành phố từ phía bắc bến cảng, thiết lập trụ sở tại tòa thị chính gọi là Konak. Chỉ huy quân đội ban đầu là Mürsel Pasha rồi đến Nureddin Pasha, Tướng của Tập đoàn quân 1 Thổ Nhĩ Kỳ. Ngay từ đầu, sự xâm chiếm thành phố của Thổ Nhĩ Kỳ diễn ra trong trật tự. Sáng ngày 9 tháng 9, ít nhất 21 tàu chiến Đồng Minh neo đậu ở cảng Smyrna, bao gồm tàu đô đốc HMS Iron DukeKing George V của Anh, cùng với hạm đội gồm tàu tuần tiễu và tàu khu trục dưới sự chỉ huy của Đô đốc Osmond Brock, tàu khu trục USS Litchfield, Simpson, và Lawrence của Hoa Kỳ (sau còn có Edsall), ba tàu hải dương và hai tàu khu trục Pháp dưới sự chỉ huy của Đô đốc Dumesnil, và một tàu tuần tiễu và một tàu khu trục Ý. Để đề phòng, thủy thủ và binh lính từ hạm đội Đồng Minh lên bờ để canh gác những khu vực tương ứng nhằm duy trì tính trung lập trong trường hợp bạo loạn xảy ra giữa người Thổ và người Công giáo.

Ngày 9 tháng 9, binh lính Thổ bắt đầu phá vỡ trật tự và kỷ luật, nhắm vào dân cư người Armenia, cướp phá cửa hàng, nhà cửa, tách biệt đàn ông với phụ nữ, đồng thời đem bắt và tấn công tình dục những người phụ nữ đó. Vị giám mục đô thành Chính thống giáo Hy Lạp, Chrysostomos, bị tra tấn và chém đến chết bởi một đám người Thổ Nhĩ Kỳ trước sự chứng kiến của binh lính Pháp, những người được lệnh không can thiệp bởi chỉ huy của họ và được sự đồng ý của Đô đốc Dumesnil.

Nạn nhân của những cuộc thảm sát của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ còn bao gồm công dân nước ngoài. Ngày 9 tháng 9, thương gia Hà Lan Oscar de Jongh và vợ bị sát hại bởi kỵ binh Thổ Nhĩ Kỳ, còn một bác sĩ Anh bị đánh đến chết ở trong nhà, trong lúc ngăn cản một cô hầu gái bị cưỡng hiếp.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Tựa đề của bài báo về vụ hỏa hạn trong tờ _[[The New York Times_ ngày 17 tháng 9 năm 1922. Tạm dịch: _Smyrna chỉ còn đống tro tàn_.]] **Đại hỏa hoạn Smyrna** hay **thảm
**Chiến tranh Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ năm 1919–1922** (, ) là chiến tranh giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc phân chia đế quốc Ottoman sau Thế chiến thứ nhất, diễn ra từ
**Aristotle Onassis Sokratis** (tiếng Hy Lạp: Αριστοτέλης Ωνάσης, Aristotelis Onasis) (15 tháng 1 năm 1906 – 15 tháng 3 năm 1975), thường được gọi là Ari hoặc Aristo Onassis, là ông trùm vận tải biển
**Nero Claudius Caesar Augustus Germanicus** (15 tháng 12 năm 37 – 9 tháng 6 năm 68), tên khai sinh là **Lucius Domitius Ahenobarbus**, còn được gọi là **Nero Claudius Caesar Germanicus**, là vị Hoàng đế
**Ernest Miller Hemingway** (21 tháng 7 năm 1899 – 2 tháng 7 năm 1961) là một tiểu thuyết gia người Mỹ, nhà văn viết truyện ngắn và là một nhà báo. Ông là một phần
**USS _Parrott_ (DD-218)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**HMS _Iron Duke**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp _Iron Duke_, được đặt tên theo Công tước Arthur Wellesley, có biệt danh
**Alexios I Komnenos** (, 1048 hoặc 1056 – 15 tháng 8, 1118), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1081 đến năm 1118. Xuất thân là một tướng lĩnh và điền chủ, dù không phải