✨Dạ cổ hoài lang

Dạ cổ hoài lang

Dạ cổ hoài lang là bản nhạc do nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác, nói về việc nghe tiếng trống trong đêm mà thương nhớ chồng. Từ bản Dạ cổ hoài lang mỗi câu 2 nhịp, các nghệ sĩ sau này chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp, mà thành bài vọng cổ đầu tiên.

Nguyên nhân ra đời

phải|Tượng Cao Văn Lầu trong Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử và nhạc sĩ Cao Văn Lầu ở thành phố Bạc Liêu. Theo báo Thanh Niên, thì Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) đã thổ lộ với bạn thân rằng: :_Tôi đặt bài này bởi tôi rất thương vợ. Năm viết bản Dạ cổ hoài lang, tôi đã ăn ở với vợ tôi được 3 năm mà không có con...Tiếng ra, tiếng vào của gia đình buộc tôi phải thôi vợ, nhưng tôi không đành. Tôi âm thầm chống lại nghiêm lệnh của gia đình, không đem vợ trả về cho cha mẹ mà đem gởi đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu..._ Tác giả bài báo kể tiếp:

Trong thời gian dài, phu thê phải cam chịu cảnh "đêm đông gối chiếc cô phòng", Sáu Lầu thường mượn tiếng đàn để vơi cơn phiền muộn. Và bản Dạ cổ hoài lang đã ra đời trong bối cảnh như thế...

Tác giả Trung Tín trong một bài viết, cho biết thêm hai lời kể nữa:

Lời kể của nhạc sĩ Hai Ngưu : :Trong một đêm ông Sáu Lầu trực gác tại Nhà đèn Bạc Liêu vào năm 1920, do đau khổ trong hoàn cảnh nợ duyên ngang trái, ông xúc cảm viết thành bản nhạc lòng Dạ cổ hoài lang (Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng). Sau khi bản Dạ cổ hoài lang ra đời...ít lâu sau (nhờ vợ ông có thai) hai vợ chồng ông được tái hợp, để rồi sau đó hai ông bà đã có với nhau 7 người con.

Lời kể của nhà giáo Trịnh Thiên Tư với ông Chín Tâm (nguyên giảng viên Trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn): :''Năm ông Sáu Lầu 28 tuổi, ông được lệnh mẹ phải thôi vợ vì lý do "tam niên vô tự bất thành thê". Ông Sáu Lầu đau khổ nhưng không dám cãi lời mẹ dạy. Chiều chiều ông ôm cây đàn kìm ra sau vườn làm bạn tâm tình... :Bài này lúc đầu có 22 câu và ông đặt tên là Hoài lang. Danh ca Bảy Kiên nhận thấy có vài câu trùng ý, đề nghị rút lại còn 20 câu. Đồng thời ông Kiên còn thêm vào hai chữ "dạ cổ", thành ra "Dạ cổ hoài lang". Về lời ca, nhạc sĩ Sáu Lầu phóng tác theo bài thơ "Chinh phụ thán" của nhạc sư Nguyệt Chiếu – trụ trì chùa Phật Hòa Bình ở Bạc Liêu. Bài thơ mang âm hưởng tích "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn" đời nhà Tần bên Tàu.

Nhưng theo Trần Tấn Hưng (Năm Nhỏ) và những người đồng môn với ông Cao Văn Lầu, thì ông Lầu đã soạn được phần nhạc trước khi xa vợ. Ông Hưng kể: :Ông Cao Văn Lầu cùng các bạn học đồng thời đã được thầy là nhạc sư Lê Tài Khí (Nhạc Khị) hướng dẫn sáng tác theo một chủ đề là "Chinh phụ vọng chinh phu", được rút ra từ bản Nam ai Tô Huệ chức cẩm hồi văn. Lúc đó có nhiều người sáng tác, riêng ông Cao Văn Lầu trong năm Đinh Tỵ (1917) đã sáng tác một bản nhạc 22 câu, nhưng gặp phải hoàn cảnh vợ chồng ly tán...Vì quá đau buồn nên ông không thể tiếp tục đặt lời ca, mãi đến năm sau vợ chồng hàn gắn lại ông mới có đủ tinh thần chỉnh lý bản nhạc. Ông đã theo lời khuyên của bạn đồng môn là Ba Chột (tác giả bản Liêu Giang, tác phẩm được sáng tác cùng thời và cùng một chủ đề vừa nêu trên) bỏ bớt 2 câu trùng lắp còn lại 20 câu và tiếp tục đặt lời ca...

Và cũng theo ông Hưng, cái tên Dạ cổ hoài lang là của một nhà sư đặt cho bản nhạc: :Bản nhạc và lời ca đã sáng tác xong nhưng chưa có tên. Lại vừa đến rằm Trung thu (Mậu Ngọ, 1918) ông Lầu cùng các bạn đến thăm thầy luôn tiện đem bản nhạc ra trình. Ông Lầu đã dùng chiếc đàn tranh vừa độc tấu một lần và vừa đàn vừa ca thêm một lần nữa. Lúc đó, ngoài các thầy trò còn có mặt nhà sư Nguyệt Chiếu (một người rất tinh thâm Hán học và nhạc cổ truyền), chính thầy Nhạc Khị đã nhờ nhà sư đặt tên cho bản nhạc vừa tấu và nhà sư đã đặt tên là Dạ cổ hoài lang. Vậy, bản Dạ cổ hoài lang 20 câu nhịp đôi đã chính thức ra đời kể từ đêm đó..

Trần Phước Thuận ở Hội Khoa học Lịch sử Bạc Liêu, trong một bài viết đã kết luận: :Bản Dạ cổ hoài lang về nguyên nhân sáng tác tuy có dính líu một phần nào với hoàn cảnh chia ly của vợ chồng Cao Văn Lầu, nhưng nguyên nhân chính vẫn là nhờ sự hướng dẫn sáng tác của thầy Nhạc Khị với một tiêu đề định sẵn...

Thời điểm ra đời

Thời điểm Dạ cổ hoài lang ra đời, ngoài những chi tiết khá khác nhau qua lời kể ở phần trên, còn có nhiều ý kiến chưa tương đồng nữa, kể cả ông Cao Kiến Thiết và Cao Văn Bỉnh, là hai người con của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu cũng chưa xác định được thời điểm, vì có lúc hai ông nói năm 1919 là năm ra đời bản Dạ cổ, có lúc hai ông lại nói năm 1919 là năm đổi tên Dạ cổ thành Vọng cổ .

Và theo các nhà nghiên cứu khác, thì: Ông Thành Châu (báo Văn học nghệ thuật, tháng 8 năm 1977), nhà thơ kiêm soạn giả cải lương Kiên Giang (Báo Long An, ngày 18 tháng 7 năm 1986), đồng cho rằng bài Dạ cổ hoài lang ra đời năm 1917. Nhạc sĩ Trọng Nguyễn (Kỷ yếu Từ Dạ cổ hoài lang, tr.40), Nghệ sĩ nhân dân Ba Vân tức Lê Long Vân (Kể chuyện cải lương, 1988, tr. 67), nhà nghiên cứu Đắc Nhẫn (Tìm hiểu âm nhạc cải lương, Nhà xuất bản TP. HCM, 1987, tr. 41), hai nhà sử học Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế (Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản KHXH, 1992) không cho biết năm khởi thảo, nhưng đều nói bài Dạ cổ hoài lang ra đời năm 1918. Nhạc sĩ Trương Bỉnh Tòng (Kỷ yếu Từ Dạ cổ hoài lang, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1992, tr. 50), Lâm Tường Vân (Đặc san Quý Dậu 1993, Hội Ái hữu Bạc Liêu Nam Cali, tr. 28), Nguyễn Tư Quang (Tạp chí Bách Khoa số 63, Sài Gòn, 1959) thì năm sinh của bài Dạ cổ hoài lang là năm 1919. GS. Trần Quang Hải (con trai của GS. Trần Văn Khê) cho là ca khúc ra đời vào năm 1920 và nhà nghiên cứu Toan Ánh nói "vào khoảng năm 1920" (Tìm hiểu nghệ thuật cầm ca, Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1998, tr. 207-208) *Ông Anh Đệ (Nghệ thuật sân khấu, Viện sân khấu, 1987, tr. 59) cho rằng năm sinh của bài Dạ cổ hoài lang là 1915.

Tuy nhiên, ý kiến cho rằng bài Dạ cổ hoài lang ra đời ngày 15 tháng 8 (âm lịch) năm Mậu Ngọ (nhằm ngày 19 tháng 9 năm 1918) được đa số nghệ sĩ Bạc Liêu và nhiều người đồng thuận hơn.

Nghi vấn

Ông Nguyễn Tư Quang, tác giả bài báo Thử tìm xuất xứ bài Vọng cổ cho biết: :_... Thoát thai của bản nhạc vốn là bài thơ có dạng như là một bài phú 20 câu lấy nhan đề là Dạ cổ hoài lang. Bài này do một nhà sư có pháp danh Nguyệt Chiếu, không rõ họ tên thật, tu trong một ngôi chùa ở làng Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu. Bài Dạ cổ ra đời năm 1919..._

Ý kiến này được nhà nghiên cứu Toan Ánh đồng thuận, ông viết: :Ở chùa Hòa Bình tỉnh Bạc Liêu, có một nhà sư pháp danh là Nguyệt Chiếu. Thấy nhà sư nho học uyên thâm với tư tưởng ẩn dật, người ta đoán chừng là một văn nhân chống Pháp trong thời Cần Vương, nay thất thời nên tạm lánh mình vào cửa Phật...Tuy đã đi tu nhưng vẫn mang nặng tình non nước…nên nhà sư mới đem tâm sự mình ký gủi vào bài từ, đề là Dạ cổ hoài lang. Và bài thơ này được ông Sáu Lầu phổ ra nhạc...

Năm 1989, tại cuộc hội thảo ở Bạc Liêu, nhạc sĩ Trương Bỉnh Tòng cũng đã phát biểu: :''Vào những năm 1950-1952, nhóm sưu tầm nghiên cứu dân ca và cổ nhạc Nam Bộ gồm nhạc sĩ Quách Vũ, Ngọc Cung và ông. Rất tiếc là lúc ấy ông Cao Văn Lầu đang bệnh không ra được vùng giải phóng. Nhưng cũng may là nhóm tài tử ở Long Điền có người biết rành cho hay ông Sáu đã dựa vào bài thơ của nhà sư Nguyệt Chiếu mà phổ nhạc. Nhạc của nó là sự kết hợp giữa hai bài Hành Vân và Xuân nữ .

Nhưng qua tìm hiểu của ông Trần Phước Thuận ở Hội Khoa học Lịch sử Bạc Liêu, thì: :Ở Bạc Liêu chỉ có một nhà sư pháp danh là Đạt Bảo tự Nguyệt Chiếu (1882–1947), trước ở chùa Vĩnh Phước An sau dời về chùa Vĩnh Đức, hiện mồ mả của nhà sư nằm ở sau chùa Vĩnh Đức. Không có chùa nào mang tên Hòa Bình như các tài liệu trên đã ghi. Ông vốn là tiền bối về nhạc lễ cổ truyền nhưng ông chưa bao giờ làm thơ. Các đệ tử của ông hiện còn sống đều xác nhận như vậy và chẳng ai nghe thầy nói gì về bài thơ trên. Như vậy, cái thuyết cho rằng "ông sáu Lầu đã dựa vào bài thơ của nhà sư Nguyệt Chiếu để sáng tác ra bản Dạ cổ hoài lang năm 1919" là hoàn toàn không có căn cứ. *Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp hai. Bản Vọng cổ từ nhịp bốn trở đi, trên những chặng đường phát triển, thuộc công trình chung của tài tử bốn phương. Và ông tổ cải lương không phải là Cao Văn Lầu, vì bản Dạ cổ hoài lang chào đời năm 1918, trong khi sân khấu cải lương ra đời khoảng năm 1916.

Chuyển thể

Kịch nói Dạ cổ hoài lang: do NSƯT Thanh Hoàng sáng tác năm 1994 dựa trên bài hát Dạ cổ hoài lang. Vở diễn do NSƯT Công Ninh làm đạo diễn và ra mắt lần đầu tại Nhà hát 5B Võ Văn Tần, Thành phố Hồ Chí Minh. Các nghệ sĩ nổi tiếng tham gia diễn gồm có NSƯT Thành Lộc (vai ông Tư), NSND Việt Anh (vai ông Năm)... Vở diễn thành công đến mức đã đoạt được 4 huy chương vàng cho 4 nghệ sĩ khác nhau tại Liên hoan Sân khấu Chuyên nghiệp Toàn quốc năm 1995. Về sau vở Dạ cổ hoài lang được trình diễn ở Sân khấu kịch IDECAF, với sự tham gia của NSƯT Thành Lộc (vai ông Tư) và NSƯT Hữu Châu (vai ông Năm). Ngoài ra bản thân NSƯT Thanh Hoàng, NSƯT Hoài Linh... cũng từng thử sức với vai ông Tư trên sân khấu.

Phim điện ảnh Dạ cổ hoài lang: do Nguyễn Quang Dũng làm đạo diễn, được công chiếu năm 2017. Bộ phim có sự tham gia của NSƯT Hoài Linh (vai ông Tư), Chí Tài (vai ông Năm), NSƯT Ngọc Hiệp (vai bà Tư), cùng các diễn viên trẻ như Will (vai ông Tư lúc trẻ), Võ Đình Hiếu (vai ông Năm lúc trẻ) cùng các diễn viên khác.

Nguồn cảm hứng

Bài thơ Đêm nghe Dạ cổ hoài lang trên Tam Đảo trích trong tập Ngan ngát mùa xưa (2005) của nhà thơ Trịnh Bửu Hoài, nhà xuất bản Văn nghệ TP.HCM 2005, có nhắc đến bản nhạc cổ này.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Dạ cổ hoài lang_** là bản nhạc do nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác, nói về việc nghe tiếng trống trong đêm mà thương nhớ chồng. Từ bản _Dạ cổ hoài lang_ mỗi câu
Bản “ Dạ cổ hoài lang” - tác phẩm nổi tiếng của nghệ sĩ tài danh Cao Văn Lầu – người đã làm rạng rỡ nền cổ nhạc truyền thống dân tộc. Ông sinh ngày
Hẳn bạn đã nhận ra nghệ sĩ Sáu Hưng chơi nhiều chữ hơn lòng bản ghi, ví dụ câu đầu tiên chỉ có 6 chữ đờn nhưng chú hoa lá lên tới 11 chữ. Tương
**Vọng cổ**, hay **vọng cổ Bạc Liêu**, là điệu nhạc rất thịnh hành ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Bắt nguồn từ bài _"Dạ cổ hoài lang"_ (nghe tiếng trống đêm, nhớ chồng)
**Bệnh chướng hơi dạ cỏ** (_Ruminal tympany_) là một trong những căn bệnh phổ biến của động vật nhai lại, bệnh thường gặp ở gia súc có dạ dày kép như bò, trâu, dê. Bệnh
Tối ngày 08/3/2025, với chủ đề "Long Hải mùa hẹn" chương trình nghệ thuật khai mạc Lễ hội Dinh Cô Long Hải năm 2025 tại sân khấu trước di tích lịch sử văn hóa Dinh
Tối ngày 08/3/2025, với chủ đề "Long Hải mùa hẹn" chương trình nghệ thuật khai mạc Lễ hội Dinh Cô Long Hải năm 2025 tại sân khấu trước di tích lịch sử văn hóa Dinh
Tối ngày 08/3/2025, với chủ đề "Long Hải mùa hẹn" chương trình nghệ thuật khai mạc Lễ hội Dinh Cô Long Hải năm 2025 tại sân khấu trước di tích lịch sử văn hóa Dinh
**Năm Cơ (1919-1980)** tên thật là Dương Văn Cơ, một nhạc công - danh cầm cổ nhạc Nam Kỳ. Ông là người Tiều. nhỏ|Danh cầm Năm Cơ - Thân tặng thính giả Hồng Hoa (1
**Cao Văn Lầu** thường gọi **Sáu Lầu**, (22 tháng 12 năm 1890 – 13 tháng 8 năm 1976) là một nhạc sĩ và là tác giả bài "Dạ cổ hoài lang", một bài ca độc
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
**Trần Thị Ngọc Ánh**, thường được biết đến với nghệ danh **Hương Lan** (sinh ngày 9 tháng 5 năm 1990 ), là một nữ ca sĩ người Mỹ gốc Việt. Là một trong những giọng
**Nguyễn Văn Liêm**, thường được biết đến với nghệ danh ** Việt Anh** (sinh ngày 11 tháng 6 năm 1958), là một nam diễn viên người Việt Nam. Ông được xem là một trong những
**Vũ Đức Sao Biển** (12 tháng 2 năm 1947 – 6 tháng 5 năm 2020) là một nhạc sĩ, nhà văn, nhà báo và nhà giáo người Việt Nam. Khi viết phiếm luận, ông dùng
Trích đoạn cải lương _Tự Đức dâng roi_ – màn trình diễn cải lương trên [[chợ nổi tại Liên hoan Ẩm thực Món ngon các nước lần V – 2010 tại Thành phố Hồ Chí
**Phượng Liên** (tên khai sinh: **Lữ Phụng Liên**, sinh ngày 14 tháng 7 năm 1947) là một nữ nghệ sĩ gạo cội của nền nghệ thuật sân khấu cải lương miền Nam từ trước năm
**Hồ Kim Hoàng** (1963 - 2018) thường được biết đến với nghệ danh **Thanh Hoàng**, là một diễn viên, đạo diễn, nhà biên kịch người Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Giám đốc nhà
** Hồng Nga** (tên thật **Đinh Thị Nga**), là nghệ sĩ cải lương gạo cội của sân khấu miền Nam từ trước và sau năm 1975, bà có thể hóa thân xuất sắc vào nhiều
nhỏ|389x389px|Đình Ngọc Mạch thờ Hoàng Tử Lý Nhã Lang **Nhã Lang Vương** tên thật Lý Nhã Lang là hoàng tử của hậu Lý Nam Đế Lý Phật Tử. Vì là con trai thứ 8 của
nhỏ|phải|Vị trí vùng Đồng bằng sông Cửu Long trên bản đồ Việt Nam **Đồng bằng sông Cửu Long**, còn được gọi là **Tây Nam Bộ** hay** miền Tây**, là vùng cực nam của Việt Nam,
**Ngọc Huyền**, tên khai sinh **Vũ Hà Ngọc Huyền** (sinh ngày 28 tháng 6 năm 1970) là nghệ sĩ cải lương người Mỹ gốc Việt. Ngọc Huyền từng đoạt nhiều giải thưởng lớn tại Việt
**Cổ Long** (1938 - 1985; tiếng Trung: 古龍) là nhà văn Đài Loan viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng. Ông cũng là nhà biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn. Các tác phẩm
**Nguyễn Thành Lộc** (sinh ngày 3 tháng 11 năm 1961), thường được biết đến với nghệ danh **Thành Lộc**, là một nam diễn viên, doanh nhân kiêm đạo diễn sân khấu người Việt Nam. Với
**Trương Hoàng Xuân Mai** (sinh ngày 5 tháng 1 năm 1995), thường được biết đến với nghệ danh **Xuân Mai**, là một cựu ca sĩ kiêm diễn viên người Việt Nam. Cô bước chân vào
**Bạch Tuyết** tên khai sinh là **Nguyễn Thị Bạch Tuyết** (sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945) là nữ nghệ sĩ cải lương danh tiếng, được mệnh danh là "**Cải lương chi bảo**". Trước năm
**Phong Thị Ngọc Giàu**, thường được biết đến với nghệ danh **Ngọc Giàu** (sinh ngày 13 tháng 12 năm 1945), là một nữ diễn viên kiêm nghệ sĩ cải lương người Việt Nam. ## Sự
**Nguyễn Công Ninh**, thường được biết đến với nghệ danh **Công Ninh** (sinh ngày 28 tháng 1 năm 1962), là một nam diễn viên người Việt Nam. Ông là chủ nhiệm Khoa đạo diễn tại
**Cao** là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 고, Romaja quốc ngữ: _Go_), Trung Quốc (chữ Hán: 高, bính âm: _Gao_).
## Biền văn *Kinh Thi *Sở Từ *Lưỡng Hán Nhạc Phủ *Dân ca Ngụy Tấn Nam Bắc Triều *Phú *Đường Thi tam bách thủ *Tống Từ tam bách thủ *Nguyên Khúc tam bách thủ *Toàn
**Bạc Liêu** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực nam của Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tỉnh Bạc
**Châu Thành** là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Châu Thành nằm ở phía nam tỉnh Long An, cách thành phố Tân An khoảng 12 km, cách trung tâm
**Thoại Mỹ**, tên thật là **Nguyễn Thị Ngọc Mỹ** (sinh ngày 28 tháng 4, năm 1969 tại Sài Gòn). ## Giải thưởng * Năm 1990: đạt huy chương Bạc tại Liên hoan sân khấu toàn
**Thanh Ngân**, tên đầy đủ là **Nguyễn Thị Ngà**, là nghệ sĩ cải lương, dân ca người Việt Nam. Cô được Nhà nước phong tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú năm 2007 và nghệ
**Nguyễn Quang Dũng** (sinh ngày 18 tháng 12 năm 1978) là một nam nhà làm phim người Việt Nam. Được đánh giá là một trong những nhà làm phim Việt Nam xuất sắc nhất trong
**Trung tâm Làng Văn** là một trung tâm sản xuất và phát hành băng đĩa nhạc lâu đời có trụ sở tại Hoa Kỳ và Việt Nam. ## Lịch sử Trung tâm Làng Văn được
**Sân khấu kịch Idecaf** hay **Nhà hát kịch Idecaf** (tên giao dịch: **Công ty trách nhiệm hữu hạn Sân khấu và Nghệ thuật Thái Dương**) là một đơn vị chuyên tổ chức các chương trình
**Nguyễn Hữu Châu** (sinh ngày 22 tháng 1 năm 1966), thường được biết đến với nghệ danh **Hữu Châu**, là một nam diễn viên người Việt Nam. ## Tiểu sử Hữu Châu sinh ngày 22
**Trần Ngọc Diện** (1884 - 1944), tục gọi là cô **Ba Diện**, là một giáo viên, một nghệ sĩ nhiều tài năng. Bà là người thành lập _Đồng Nữ Ban_, gánh cải lương duy nhất
**Lê Vũ Cầu** tên thật là **Lê Bửu Cầu** (22 tháng 3 năm 1955 – 23 tháng 9 năm 2008) là một nghệ sĩ hài - kịch người Việt Nam, được biết đến nhiều qua
**Cao Minh Đạt** (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1975) là một nam diễn viên người Việt Nam, được biết đến như là gương mặt diễn viên điện ảnh Việt Nam trong những năm của
**Nguyễn Điền Vũ Minh** (20 tháng 2 năm 1967 – 13 tháng 3 năm 2022), thường được biết đến với nghệ danh **Vũ Minh**, là một cố đạo diễn sân khấu kiêm nhà sản xuất
**Liên hoan phim quốc tế Hà Nội lần thứ 5** là lần thứ 5 tổ chức của Liên hoan phim quốc tế Hà Nội với khẩu hiệu "Điện ảnh - Hội nhập và phát triển
300x300px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 *1 tháng 1: Rudolf Gnägi trở thành tổng thống Thụy Sĩ *24 tháng 1: Động đất ở Muradiye, Thổ Nhĩ Kỳ, khoảng 3,85 người chết ### Tháng 2
thế=Ngọ Môn - Huế|nhỏ|Ngọ Môn, lối vào [[Hoàng thành Huế, nhìn từ phía điện Thái Hòa nhìn ra|317x317px]] **Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam** là một trật tự hoặc những quy cách thống nhất
Năm **1892** (**MDCCCXCII**) là một năm thường bắt đầu vào Thứ sáu (liên kết sẽ hiển thị đầy đủ lịch) trong Lịch Gregory (hoặc một năm thường bắt đầu vào Thứ tư trong Lịch Julius
**_Cùng nhau đi Hồng binh_** là một bài hát theo điệu March được sáng tác năm 1930 của nhạc sĩ Đinh Nhu, được coi là bài hát đầu tiên của nhạc đỏ Việt Nam. Một
**Nguyễn Hoàng** (sinh ngày 21 tháng 1 năm 1987), thường được biết đến với nghệ danh **Touliver**, là một nam nhạc sĩ, DJ kiêm nhà sản xuất thu âm người Việt Nam. Được mệnh danh