Trong suốt cuộc Chiến tranh Bảy năm, pháo đài Kolberg thuộc tỉnh Pomerania của Phổ (nay là Kołobrzeg, Ba Lan) đã quân đội Nga bao vây ba lần. Hai cuộc vây hãm đầu tiên, vào cuối năm 1758 và từ ngày 26 tháng 8 cho đến ngày 18 tháng 9 năm 1760, đã kết thúc với thất bại của Nga. Một cuộc vây hãm cuối cùng đã được tiến hành từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1761, và chấm dứt với sự đầu hàng của Kolberg. Trong các cuộc vây hãm năm 1760 và 1761, các lực lượng Nga được sự hỗ trợ của quân trợ chiến Thụy Điển. Sự thất thủ của Kolberg đã đánh mất hải cảng quan trọng cuối cùng của Phổ trên bờ biển Baltic, đồng thời tạo bàn đạp cho quân đội Nga tấn công Stettin và Berlin. Tuy nhiên, vài tuần sau thắng lợi này, Nữ hoàng Nga Elizaveta qua đời mà không có con nối dõi, và người kế tục của bà, Pyotr III, đã ký kết hòa ước và giao trả Kolberg cho Phổ.
Cuộc kháng cự thành công của quân đội Phổ tại Kolberg vào các năm 1759 và 1760 đã chứng tỏ tầm quan trọng của pháo đài kiên cương này đã đối với việc bảo vệ vương quốc Phổ. Quân Nga chỉ hạ được Kolberg sau phong tỏa pháo đài này trong vòng một tháng, chứ không thể dùng quân đoàn vây hãm của mình để buộc phía Phổ phải đầu hàng. Sau những thắng lợi quân sự của Nga và Áo vào cuối năm 1761, mặc dù Phổ đã bị đẩy đến thế cùng, tình hình quân sự và chính trị của các nước chống Phổ cũng thực sự mong manh.
Sau cuộc vây hãm
Sự thất thủ của Kolberg đã góp phần cho thấy sức mạnh của quân đội Nga trong Chiến tranh Bảy năm, ngoài ra đây là lần đầu tiêm P. A. Rumyantsev giữ một chức vụ chỉ huy độc lập. Mặc dù đây là thắng lợi duy nhất của quân Nga trong chiến dịch năm 1761, Trong các chiến dịch trước, quân đội Nga thường rút khỏi Phổ vào mùa đông do những khiếm khuyết về tiếp tế, nhưng giờ đây vấn đề nan giải này có lẽ sẽ được giải quyết bằng việc vận chuyển quân nhu đến Phổ theo đường biển. Tồi tệ hơn, Đế quốc Anh từ bỏ viện trợ cho Phổ. Do đó, hứa hẹn năm 1762 sẽ là một cái năm đầy thảm họa của Vương quốc Phổ. Tuy nhiên, ông chờ mãi vẫn không thấy người Thổ ra quân. Nhà vua vẫn quyết tâm không đầu hàng thà được "chôn cất trong đống đổ nát của Tổ quốc" còn hơn là phải ký kết văn kiện đầu hàng với phe Đồng minh. Ông vẫn chờ đội quân Thổ cho đến tháng 2 năm 1762, và nếu không có gì thì ông sẽ kết liễu cuộc đời của mình:
Nhưng ông cũng nói rằng: "nếu Trẫm thấy dấu hiệu mỏng manh nhất của một lối thoát, Trẫm sẽ lần theo nó tới cùng. Sẽ thật là hèn hạ nếu tuyệt vọng mà không có lý do thích đáng".. Nhưng, bên cạnh đó, tình hình chính trị và quân sự của các nước Đồng minh cũng bất lợi. Các chỉ huy quân sự của Áo đã mất niềm tin vào cuộc chiến, và thậm chí chiến thắng Schweidnitz cũng không thể ngăn chặn sự sa sút của khả năng và ý chí phát động chiến tranh của người Áo. Những khó khăn về tài chính buộc Nữ hoàng Maria Theresia phải cắt giảm quân số của Áo. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Choiseul lo sợ Áo hoặc Nga sẽ rút khỏi cuộc chiến, và nỗi lo của ông ta hoàn toàn có cơ sở. Bất chấp những thằng lợi của mình, nước Nga cũng đến hồi kiệt quệ. Chỉ có mỗi Nữ hoàng Elizaveta vẫn chủ trương duy trì, nhưng sức khỏe của bà đã suy nhược đến mức không thể xuất hiện trước công chúng. Bất chấp sự mua chuộc và chi viện của Pháp, Thụy Điển đã chuẩn bị từ bỏ chiến tranh. Do Nhà Habsburg của Áo không thể tiếp tục cuộc chiến,
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Trong suốt cuộc Chiến tranh Bảy năm, pháo đài Kolberg thuộc tỉnh Pomerania của Phổ (nay là Kołobrzeg, Ba Lan) đã quân đội Nga bao vây ba lần. Hai cuộc vây hãm đầu tiên, vào
**Chiến tranh Bảy Năm** (1756–1763) là cuộc chiến xảy ra giữa hai liên quân gồm có Vương quốc Anh/Vương quốc Hannover (liên minh cá nhân), Vương quốc Phổ ở một phía và Pháp, Áo, Nga,
nhỏ| Áp phích phim cho _[[Hawai Mare oki kaisen|Hawai Mare oki kaisen của_ Kajiro Yamamoto, (ハ ワ イ ・ マ レ ー 沖 海 戦, _The War at Sea from Hawaii to Malaya_ ), Toho
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
phải|Nữ hoàng Nga [[Elizaveta Petrovna đã tham gia Liên minh chống Phổ trong Bảy năm chinh chiến.]] Thành ngữ **Phép lạ của Nhà Brandenburg** (tiếng Đức: _Mirakel des Hauses Brandenburg_, tiếng Pháp: _Miracle de la
Bá tước **Helmuth Karl Bernhard _Graf_ von Moltke** (26 tháng 10 năm 1800 tại Parchim, Mecklenburg-Schwerin – 24 tháng 4 năm 1891 tại Berlin, Phổ) là một thống chế Phổ và đế quốc Đức. Ông
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong
Bá tước **Pyotr Alexandrovich Rumyantsev-Zadunaisky**, còn được viết là **Rumiantsof**, **Romanzow** hay **Romanzoff** (15 tháng 1 năm 1725 – 19 tháng 12 năm 1796) là một trong những vị thống soái lỗi lạc nhất của
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
nhỏ|Helmut von Gordon **Helmuth von Gordon** (30 tháng 7 năm 1811 tại Kolberg – 26 tháng 12 năm 1889 tại Dresden) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**Robert August Valentin Albert Reinhold von Massow** (26 tháng 3 năm 1839 tại Gumbin – 16 tháng 12 năm 1927 tại Wiesbaden) là một Thượng tướng Kỵ binh Phổ, đồng thời là Chủ tịch Tòa
**Phổ** (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: _Borussia_, _Prutenia_; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: _Prūsija_; tiếng Ba Lan: _Prusy_; tiếng Phổ cổ: _Prūsa_) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg,
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**August Wilhelm Antonius Graf Neidhardt von Gneisenau** (27 tháng 10 năm 1760 – 23 tháng 8 năm 1831) là Thống chế Phổ, được nhìn nhận là một trong những nhà chiến lược và cải cách
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
**HMS _Indomitable**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Invincible_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã hoạt động tích cực trong cuộc
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Âm nhạc Ba Lan** bao gồm các khía cạnh khác nhau của âm nhạc đương đại và âm nhạc dân gian có nguồn gốc từ Ba Lan. Các nghệ sĩ đến từ Ba Lan bao