✨Côn nhị khúc

Côn nhị khúc

nhỏ|phải|Côn nhị khúc phải|Côn nhị khúc Côn nhị khúc hay côn hai đoạn hay là lưỡng tiết côn hoặc song tiết côn hay nhị đoản côn (âm romaji tiếng Nhật là nunchaku) là một dạng đoản côn có hai khúc được nối với nhau bởi một đoạn dây mềm. Sử dụng thịnh hành trong võ phái Karate Nhật Bản và hiện nay, do tính chất tiện lợi của nó, côn nhị khúc đã được nhiều môn sinh của các võ phái khác nhau ưa chuộng trong luyện tập và chiến đấu....

Nguồn gốc

Trong các võ phái cổ truyền Trung Hoa, chắc chắn côn nhị khúc cũng có nhưng không thịnh hành, thường các môn đồ tập côn tam khúc hoặc roi xích với nhiều đốt nối với nhau (thất tiết tiên hoặc cửu tiết tiên).

Tương truyền tại Vương Quốc Lưu Cầu nay là tỉnh Okinawa Nhật Bản khi tiểu vương quốc này bị người Nhật (Samurai) đô hộ, sự cai trị tàn khốc với sưu cao thuế nặng của người Nhật khiến dân bản địa liên tục nổi dậy phản kháng. Các võ quan Nhật tại các làng mạc đã nghiêm cấm không cho dân chúng được sử dụng dụng cụ bằng kim loại trong sản xuất sinh hoạt, chỉ trừ một con dao sắt được sử dụng hạn chế với sự kiểm soát của kẻ cai trị, loại bỏ tất cả những gì có thể trở thành vũ khí sát thương nhằm thủ tiêu ý chí đấu tranh của người dân bản địa. Việc tập luyện dưới hầm những chiêu thức tự vệ đã định hình những kỹ thuật chiến đấu Karate đầu tiên, và các dụng cụ sản xuất bằng gỗ, tre, trúc đã được người dân ở đây chế tạo thành các vũ khí để hợp pháp hóa sử dụng khi mang trong người vượt thoát khỏi mọi sự kiểm duyệt: trường côn (bo) vốn xuất xứ từ một cây sào; song quải (tonfa) một dạng dùi cui có cán chĩa ngang hình chữ L; chĩa ba (sai) để xóc rơm rạ; tiểu đoản côn là khúc côn gỗ ngắn như cây bút có thể để gọn trong lòng bàn tay; liềm (kama) ban đầu là dụng cụ cắt lúa, và côn nhị khúc (nunchaku) xuất xứ từ hai thanh tre hay gỗ buộc dây ở đầu dùng cuộn bó lúa khi đập lúa (néo đập lúa).

Tại Việt Nam

Thời điểm trước năm 2012, theo pháp lệnh số 16/2011UBTVQH12 thì côn nhị khúc là vũ khí thô sơ, bị cấm tàng trữ, vận chuyển và sử dụng. Nên người chơi côn nhị khúc không hoạt động công khai mà thường hoạt động với hình thức dạy kín hoặc tự tập luyện thông qua các clip hướng dẫn trên internet. Thời điểm này số lượng người chơi côn ít nên hệ thống đòn thế chưa thật sự đa dạng. Từ ngày 1/1/2012, pháp lệnh số 16/2011UBTVQH12 được sửa đổi, ban hành và có hiệu lực. Trong đó, danh sách vũ khí thô sơ đã loại bỏ "côn", điều đó đồng nghĩa với các loại côn như trường côn, đoản côn, côn nhị khúc, côn tam khúc đã được hợp pháp hóa việc sở hữu và sử dụng một cách công khai. Từ đây, các CLB Côn Nhị Khúc tự phát hoặc có đăng ký bắt đầu hình thành và phát triển, bên cạnh đó những người chơi côn nhị khúc tự do cũng bắt đầu tập luyện công khai, tạo nên một trào lưu côn nhị khúc mạnh mẽ chưa từng có ở Việt Nam. Với sự tìm tòi, ham học hỏi cùng với sự sáng tạo vô bờ bến của người chơi côn nhị khúc, hệ thống chiêu thức côn nhị khúc đã phát triển đến mức không ai dám nhận mình đã biết hết các kĩ thuật côn nhị khúc. Cùng với hệ thống chiêu thức đa dạng, người chơi côn nhị khúc cũng đã phát triển những động tác hình thể để những đòn đánh ngày càng đẹp mắt. Nhưng đến tháng 07/2018 thì côn được liệt vào hàng các loại vũ khí thô sơ bị cấm. Cụ thể như sau: “Vũ khí thô sơ là vũ khí có cấu tạo, nguyên lý hoạt động đơn giản và được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, bao gồm: dao găm, kiếm, giáo, mác, thương, lưỡi lê, đao, mã tấu, côn, quả đấm, quả chùy, cung, nỏ, phi tiêu”- Trong luật có quy định. Trong các võ phái cổ truyền Việt Nam, có một dụng cụ cũng xuất xứ từ chiếc kẹp lúa và cấu tạo có hai thành một dài một ngắn được gọi là thanh mẹ thanh con. Vũ khí này được gọi tên là thiết lĩnh với lối đánh rất gọn, có nguồn gốc từ xa xưa và hiện nay nhiều Võ Bình Định|võ phái xuất phát từ Bình Định vẫn sử dụng.

Cấu tạo

Côn nhị khúc sơ khai là hai thanh tre, gỗ có tiết diện hình tròn hoặc hình chữ nhật, dài bằng nhau và nối với nhau bằng một đoạn dây chắc chắn. Từ dụng cụ sơ khai ban đầu, côn nhị khúc ngày nay có kiểu dáng rất đa dạng với rất nhiều biến thể của hình dạng hai thanh côn: hình tròn, hình nửa tròn, hình lục giác, hình bát giác, hình chữ nhật nhưng thịnh hành nhất là thân côn được tạo các cạnh hình lục giác hoặc bát giác để gia tăng đặc tính sát thương cho vũ khí nhưng vẫn thuận tiện khi sử dụng, không quá sắc cạnh nhưng cũng không quá trơn nhẵn. Hai khúc này thường được làm với chu vi phần đuôi côn (nơi nối dây), nhỏ hơn một chút so với phần đầu côn (nơi cầm trong tay người tập) để khi sử dụng thuận tiện hơn do lực ly tâm không khiến đôi côn tuột văng ra khỏi tay người tập trong những chiêu thức loan côn, múa côn. Chiều dài của mỗi đoạn côn, tùy theo sở thích cá nhân và cấu tạo cơ thể người sử dụng, nhưng thường tối ưu là bằng độ dài cẳng tay người sử dụng tính từ cùi chỏ đến giữa lòng bàn tay (khoảng 25–35 cm). Đường kính thân côn phần đầu (to nhất) khoảng 2,5 đến 3,5 cm; phần đuôi nơi nối dây khoảng 2 đến 3 cm.

Chất liệu làm hai thanh côn cũng đa dạng hơn, kim loại (để không bị quá nặng thường làm bằng hai ống kim loại), tre, gỗ, nhưng thịnh hành nhất là côn làm bằng kim loại. Đoạn dây nối hai thanh côn có thể làm bằng dây dù chắc hoặc làm bằng xích sắt mềm bằng cách đục lỗ thẳng xuyên tâm trên bề mặt của đuôi côn, luồn dây xuống cố định vào một hoặc hai lỗ xuyên ngang thân phía đầu côn. Theo kinh nghiệm của nhiều người đã từng sử dụng côn nhị khúc, việc luồn dây xuống qua hai lỗ khiến trọng tâm của côn vững vàng hơn và kiểm soát côn dễ hơn là chỉ luồn dây xuống một lỗ xuyên ngang. Khi kéo hai thanh côn thẳng ra, chiều dài đoạn dây còn lại sau khi đã nối côn tối ưu là bằng 1/2 cho đến dài nhất là bằng chu vi của cổ tay người tập. Dây quá ngắn thì đôi côn không linh động, dây quá dài thì tuy lực đánh mạnh hơn, linh hoạt hơn nhưng việc kiểm soát côn rất khó khăn

Về mặt hình thức, côn nhị khúc gồm có năm loại chính.

Loại thứ nhất là loại thông dụng nhất, gồm có 2 thân côn có kích cỡ giống nhau (tròn hoặc bát giác) được nối với nhau bởi 1 sợ dây dù, hoặc dây xích.

Còn bốn loại khác đó là:

-        Loại thứ 2: TỬ MẪU CÔN (So-setsu-kon Nunchaku)

Loại côn này được cấu tạo bởi hai thân côn: 1 thanh ngắn và 1 thanh dài. Mỗi thân côn có thể tròn hay có cạnh. Với loại côn này, người sử dụng thường dùng 1 đầu để đỡ còn đầu kia để tấn công hay phản công: nếu địch ở gần thì tấn công bằng thanh ngắn còn địch ở xa thì tấn công bằng thanh dài.

Loại côn này giống với môn vũ khí Thiết Lĩnh của võ thuật Việt Nam.

Về thiết lĩnh: Trong các binh khí họ nhà côn, côn nhị khúc là món đặc trưng của người Nhật, côn tam khúc lại là món đặc trưng của người Hoa. Không thua kém láng giềng, người Việt ta cũng có loại côn đặc trưng, gọi là thiết lĩnh (người Hoa gọi là mẫu tử côn). Thiết lĩnh căn bản là giống như một cây gậy bình thường nhưng được gắn thêm một đoản khúc nối bằng dây xích hoặc dây thừng. Tương truyền món vũ khí này được phát triển từ một dụng cụ nông nghiệp gọi là néo, chuyên dùng để đập lúa. Thiết lĩnh sử dụng như côn bình thường, ngoài ra có thể dùng phần đoản khúc vào nhiều mục đích khác. Phần này tạo sự linh hoạt, dùng để câu móc vũ khí đối thủ, thậm chí áp chế được cả thương. Trên chiến trường, phần đoàn khúc rất thích hợp để đánh giật chân đối thủ hoặc chân ngựa. Đặc biệt, người sử dụng có thể nắm phần đoản khúc rồi huơ vòng phần gậy để đả thương nhiều đối thủ, phá vòng vây.

-        Loại thứ 3: Tam khúc côn (San-setsu-kon nunchaku)

Đây là loại côn gồm có 3 thanh gỗ, chia làm ba loại:

Loại 1: Một thanh gỗ dài và hai thanh gỗ bằng  nhau  ngắn hơn. Tất cả nối với nhau bằng các đoạn dây. Các thanh gỗ có thể tròn, bát giác hay khối chữ nhật.

Loại 2: Loại côn này có các thanh gỗ có kích cỡ như nhau và nối với nhau bởi những đoạn dây. Loại côn này rất lợi hại vì nó có thể tấn công địch thủ ở xa. Ngoài ra, tam khúc côn còn có thể đỡ và đánh cùng một lúc.

Loại thứ 3: Hổ vĩ côn, là dạng côn gồm 3 đoạn nối vào nhau tương tự như côn tam khúc, nhưng ba đoạn có chiều dài không đều nhau nối theo thứ tự từ dài đến ngắn. Song hổ vĩ côn thường sử dụng cả đôi. Nếu sử dụng đơn được gọi tên là hổ vĩ côn, Bài song hổ vĩ côn được Lão Võ Sư Trần Công sáng tạo nên và trở thành thế võ đặc dị của Sơn Đông Không Động Việt Nam. Sau khi truyền cho đệ tử nhưng vì không thấm nhuần được hết những tinh hoa trong song hỗ vĩ côn nên người đồ đệ này đã đổi tên thành song hổ vĩ tiên và thành lập môn phái khác không dám dùng tên cũ "song hổ vĩ côn".

Nguồn thông tin khác tại wikipedia cho hay, hổ vĩ côn cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa:

Trong võ thuật Trung Hoa, côn được sử dụng rất phổ thông. Thiếu Lâm tự nổi danh về côn pháp với nguyên tắc "kẻ xuất gia từ bi bác ái, thà dụng côn bất dụng thương". Bởi tuy côn có khả năng gây thương tích cho đối thủ nhưng ít khi gây chết người như đao hay thương, do đó phù hợp hơn với tăng ni phật tử,ngoài ra Cái Bang còn có một bộ côn pháp trấn phái là Đả Cẩu Côn Pháp gồm 36 chiêu biến hóa khôn lường, kỳ ảo. Nhiều loại côn từ các võ phái Trung Quốc lan truyền đến các nước vùng Á Đông khác như côn tam khúc, trường côn, đoản côn, song hổ vĩ côn.

-        Loại thứ 4: Tứ khúc côn (Yon-setsu-kon nunchaku)

Loại côn này gồm có 4 thanh gỗ: 2 thanh ngắn cách quãng 2 thanh dài. Tất cả nối liền nhau bởi các đoạn dây. Các thanh gỗ được thiết kế tròn hay có cạnh. Loại này có thể sử dụng chống lại đối phương có binh khí.

-        Loại thứ 5: Bán nguyệt côn hay Âm dương côn (Han-kei nunchaku)

Sở dĩ gọi là Bán nguyệt côn hay Âm dương côn là vì loại côn này được cấu tạo bởi 2 thanh gỗ có hình bán nguyệt và khi 2 thân gập lại thì tạo nên hình tròn của mặt trời. Loại côn này rất tiện lợi trong việc mang theo người.

Tập luyện

nhỏ|trái|Biểu diễn côn nhị khúc Người sử dụng thường cầm sát tay vào thân côn phía đầu, hoặc cách đầu côn khoảng 1–2 cm, đôi khi có thể cầm vào giữa thân côn. Cần phải phối hợp, vận động cơ thể: cổ tay, vai, hông, chân (tương tự như Boxing) để tạo ra lực đánh tối đa có thể. Các động tác tập luyện phong phú giúp cho người tập làm chủ đôi côn thành thạo. Do khi cầm một thanh côn và tấn công bằng thanh còn lại, sau khi chạm mục tiêu nhận phản lực thanh côn sẽ bật mạnh về sau, nên để không bị "phản tác dụng" khi sử dụng cần phải đánh côn điểm va chạm ở phần đuôi côn từ 5–7 cm. Khổ luyện là một vấn đề, nhưng mà luyện tập căn khoảng cách côn và chạm vào đối thủ, cho thân thể mình phản ứng nhanh nhạy, người và côn phải hoà hợp như một. Phải cảm nhận được sự chuyển động của không khí khi côn đánh vào mục tiêu.

Lực đánh của côn nhị khúc rất mạnh ở phía đầu côn do được hỗ trợ bởi lực ly tâm và phản lực trong nhiều đòn thế mà người sử dụng cầm một thanh côn và đánh văng thanh còn lại vào các mục tiêu hiểm trên người đối phương như đầu, mặt, gáy, tay, chân. Tuy nhiên, ngoài những dạng thức dùng côn nhị khúc được tập luyện và sử dụng trong thực chiến rất đa dạng: có thể một tay cầm vào phía đầu một thanh côn, một tay cầm phía đuôi thanh còn lại, giữ thẳng 2 thân côn và tấn công bằng đầu thanh côn phía trên vào các yếu điểm như huyệt đạo, hoặc đỡ, gạt, đập; có thể cầm chập cả hai thanh côn và đánh, đâm, đỡ gạt; có thể hai tay cầm hai thanh côn và dùng đoạn dây ở giữa để xiết cổ, khóa tay, chặn chân đối phương v.v. Tuy nhiên, dù bằng bất cứ hình thức nào, để sử dụng thành thạo côn nhị khúc rất cần khổ luyện bằng các kỹ thuật loan (quay) côn, thu côn, và tập đánh côn trực tiếp lên các dụng cụ cứng như trụ cây, bao cát.

Phân loại và định danh kỹ thuật côn nhị khúc

1. Phân loại theo mục đích sử dụng: Các kỹ thuật côn nhị khúc được chia làm 3 nhóm:

  • Nhóm kỹ thuật dùng để tấn công: Được sử dụng với mục đích tấn công đối phương.
  • Nhóm kỹ thuật dùng để phát động: Sau khi thực hiện xong một hoặc một tổ hợp kỹ thuật tấn công, côn thủ cần nhanh chóng thực hiện một hoặc một vài kỹ thuật phát động nhằm đưa côn về vị trí thuận lợi nhất để chuẩn bị cho đòn tấn công tiếp theo hoặc để về thế thủ.
  • Nhóm kỹ thuật dùng để phòng thủ: Được sử dụng với mục đích phòng thủ, Tuy nhiên cần chú ý, kỹ thuật côn nhị khúc dùng để phòng thủ rất hạn chế (chỉ có gạt côn và khóa - siết côn), chủ yếu "lấy tấn công để phòng thủ", khi đó các kỹ thuật tấn công để phòng thủ vẫn nằm trong nhóm kỹ thuật tấn công.
  • Nhóm kỹ thuật chỉ để biểu diễn: Chỉ được sử dụng trong biểu diễn (biểu diễn nghệ thuật hoặc "nghệ thuật hóa" võ thuật) như các kỹ thuật loan côn, tung côn, một số kỹ thuật chuyền côn, ... Các kỹ thuật trong nhóm này được coi là "kỹ thuật phụ" vì không có tác dụng trong chiến đấu. 2. Các loại kỹ thuật theo cách thức thực hiện:
  • Vụt côn (quật côn): côn thủ cầm chắc một thân côn và vụt mạnh thân côn còn lại vào mục tiêu. Loại kỹ thuật này được dùng với mục đích tấn công đối phương và cũng là loại kỹ thuật tấn công chủ yếu của côn nhị khúc.
  • Vung côn: Côn thủ cầm chắc một đầu thân côn, vung thân côn còn lại theo đường ngắn nhất về vị trí thuận lợi nhất để chuẩn bị cho đòn tấn công tiếp theo hoặc để về thế thủ. Kỹ thuật này được dùng với mục đích phát động (chuẩn bị tấn công). ** Lưu ý: Cần phân biệt vụt côn và vung côn: Vụt côn để tấn công do đó luôn luôn phát lực mạnh và đánh thẳng cánh tay để phạm vi tấn công là xa nhất; trong khi đó vung côn để phát động nên không yêu cầu phát lực mạnh, tùy tình hình cụ thể có thể vung nhanh hay chậm song luôn đưa côn theo đường ngắn và thuận tiện nhất để rút ngắn thời gian phát động.
  • Ngoáy côn: Côn thủ cầm chắc một đầu thân côn và làm cho thân côn còn lại xoay liên tục. Kỹ thuật này vừa có thể dùng tấn công, vừa có thể dùng phát động, song chủ yếu để phát động, sử dụng tấn công chủ yếu mang tính chất hù dọa đối phương bởi tính sát thương không cao.
  • Chuyền côn: Côn thủ chuyền côn từ tay nọ sang tay kia, chỉ áp dụng với trường hợp sử dụng đơn côn. Kỹ thuật này dùng để phát động.
  • Gạt côn: Côn thủ cầm chắc 2 đầu thân côn và kéo căng dây nối, dùng phần dây nối để đỡ và gạt vũ khí của đối phương (thường chỉ áp khi đối phương sử dụng trường côn). Kỹ thuật này dùng để phòng thủ. ** Lưu ý: Các loại kỹ thuật vụt côn, vung côn, ngoáy côn, chuyền côn, gạt côn là 5 loại kỹ thuật cơ bản của côn nhị khúc, phục vụ cho chiến đấu. Với côn thủ chỉ cần thành thạo 5 loại kỹ thuật này là xem như thành thạo côn nhị khúc. Các kỹ thuật phụ gồm siết - khóa côn, phi côn, loan côn, tung côn, thu côn hoặc là rất ít dùng, hoặc là chỉ để biểu diễn (không có tác dụng chiến đấu).
  • Siết - khóa côn: Côn thủ cầm chắc 2 thân côn, dùng dây nối để siết cổ đối phương hoặc để khóa vũ khí của đối phương.
  • Phi côn: Côn thủ buông tay khỏi côn và phi côn vào mục tiêu để tấn công, rất ít sử dụng, nếu sử dụng thì côn phải được chế tác lại (ví dụ như gắn thêm lưỡi dao ở đầu thân côn) để đảm bảo khả năng sát thương.
  • Loan côn: Côn thủ làm cho côn cả 2 thân côn quay quanh tay (loại kỹ thuật này gồm loan côn qua ngón và loan côn qua bàn tay). Loại kỹ thuật này chỉ để biểu diễn.
  • Tung côn: Côn thủ buông tay khỏi côn và tung côn lên trời và rồi bắt côn khi côn rơi xuống, chỉ để biểu diễn.
  • Thu côn: Côn thủ thu gọn côn để có thể cầm côn một cách cố định trên tay, loại kỹ thuật này chỉ để biểu diễn.

3. Định dạng các kỹ thuật cụ thể:

  • Vụt côn: Vụt côn thẳng (bổ côn), vụt côn chéo/ngang từ ngoài vào trong, vụt côn chéo/ngang từ trong ra ngoài, bắn côn thẳng (vụt côn thẳng khi thân côn tự do kẹp trong nách), bắn côn chéo (vụt côn chéo khi thân côn tự do kẹp trong nách), vụt côn vòng cầu.
  • Vung côn: Các kỹ thuật vung côn không có tên kỹ thuật cụ thể.
  • Ngoáy côn: Ngoáy côn số 0 (chữ O), ngoáy côn alpha (số 8 nằm ngang), ngoáy côn số 8, ...
  • Chuyền côn: Chuyền côn thẳng vai - nách, chuyền côn thẳng nách - vai, chuyền côn chéo cổ - nách, chuyền côn chéo nách - cổ, chuyền côn thẳng cổ - lưng, chuyền côn cổ - cổ, chuyền côn chéo cánh tay - lưng, chuyền côn chéo lưng - cánh tay, ... Các kỹ thuật chuyền côn đều có đối xứng phải - trái. ** Lưu ý: Cách đọc kỹ thuật chuyền côn: Chuyền côn + thẳng/chéo (tư thế của côn ngay khi tay nhận côn nắm được côn) + vị trí xủa tay chuyền côn - vị trí của tay nhận côn (ngay khi tay nhận côn nắm được côn).
  • Các loại kỹ thuật khóa - siết côn, gạt côn, phi côn chỉ có một kiểu thực hiện duy nhất, nên tên kỹ thuật trùng với tên loại kỹ thuật.
  • Các loại kỹ thuật phụ như loan côn, tung côn, thu côn hiện không quy ước tên cụ thể việc đọc tên tùy môn phái, võ đường và huấn luyện viên.

Nguyên tắc sử dụng côn nhị khúc

1. Nguyên tắc nhất thể:

  • Ý nghĩa: Đây là nguyên tắc về cách điều khiển côn nhị khúc và cũng là nguyên tắc quan trọng nhất, chi phối các nguyên tắc khác. Nếu không nắm được nguyên tắc này, côn thủ rất khó khăn để điều khiển côn nhị khúc và rất dễ sai kỹ thuật.
  • Nội dung: Trong quá trình sử dụng côn nhị khúc, côn được xem là một phần của cơ thể, là "sự nối dài" của cánh tay, để điều khiển côn nhị khúc cần tập trung vào điều khiển cơ thể mà trực tiếp là điều khiển tay sử dụng côn. Khi kỹ thuật tay đúng thì sớm hay muộn kỹ thuật côn sẽ đúng. ** Lưu ý: Để có kỹ thuật côn đúng cần đảm bảo 2 yếu tố: Một là kỹ thuật tay đúng và hai là kỹ năng tay thuần thục. Kỹ năng tay được thể hiện bởi sự liền mạch, liên tục giữa các cử động của tay trong quá trình thực hiện kỹ thuật côn. Khi tập một kỹ thuật côn mới, kỹ thuật tay đúng nhưng kỹ thuật côn có thể chưa đúng vì kỹ năng tay chưa thuần thục, khi đó côn thủ phải kiên trì luyện tập đúng kỹ thuật tay, sớm hay muộn sẽ hình thành kỹ năng.

2. Nguyên tắc hòa hợp hình thể:

  • Ý nghĩa: Đây là nguyên tắc quan trọng, là sự mở rộng của nguyên tắc nhất thể. Nếu không nắm được nguyên tắc này, côn thủ dễ bị chấn thương và không thể tạo ra một bài côn pháp hoàn chỉnh.
  • Nội dung: Bởi ta coi côn là một phần của cơ thể (nguyên tắc nhất thể) nên sự chuyển động của côn phải hòa hợp với toàn bộ cơ thể. Nói cách khác thân pháp, bộ pháp, tấn pháp, nhãn pháp phải phù hợp với kỹ thuật côn nhị khúc nhất định và ngược lại, kỹ thuật côn nhị khúc phải phù hợp với cơ thể ở tư thế nhất định.
    Ví dụ: Khi sử dụng kỹ thuật vụt chéo từ ngoài vào trong bằng tay phải: ** Về thân pháp: Vai và hông phải xoay phải để truyền lực cho côn, do đó 2 bàn chân cũng phải xoay từ trái sang phải để không bị vặn mình. Về bộ pháp: Nếu muốn tấn công đối phương ở trước mặt hoặc thì chân phải bước thẳng lên trước (chân trái không thể tiến thẳng), muốn tấn công đối phương ở bên trái thì chân trái bước tiến sang trái, muốn phản đòn tấn công của đối phương thì chân trái bước lùi về sau (chân phải không thể lùi thẳng). Về tấn pháp: Trọng tâm thân người dồn từ phải sang trái, do đó chân trụ của thế tấn chuyển từ chân phải sang chân trái. Về nhãn pháp: Mắt nhìn về mục tiêu tấn công (không nhìn xuống đất hoặc nhìn côn).
  • Lưu ý: Đối với người chơi côn nhị khúc nghệ thuật, chỉ múa côn biểu diễn thuần túy, không mang tính võ thuật thì không cần tuân thủ nguyên tắc này, bởi nghệ thuật thì tự do.

3. Nguyên tắc cương - nhu:

  • Ý nghĩa: Đây là nguyên tắc quan trọng, cũng là sự mở rộng của nguyên tắc nhất thể, giúp xác định thời điểm vận lực. Nếu không nắm được nguyên tắc này, côn thủ rất nhanh cạn kiệt thể lực, căng cứng cơ (cương quá mức) hoặc mềm yếu, thiếu dứt khoát (nhu quá mức).
  • Nội dung: Bởi ta coi côn là một phần của cơ thể (nguyên tắc nhất thể) nên trương lực cơ của cơ thể phải phù hợp với kỹ thuật côn, cụ thể: Tấn công bắt buộc mạnh, phát động ưu tiên nhanh. Khi tấn công bắt buộc phải vận lực (cương), nếu đòn tấn công không mạnh, không uy lực thì côn thể sẽ tự đưa mình vào thế nguy hiểm. Khi phát động (chuẩn bị tấn công) thì ưu tiên nhanh để rút ngắn thời gian phát động và ưu tiên không vận lực (nhu), song vẫn cần duy trì trương lực cơ vừa đủ. Vận lực khi phát động khiến côn khó kiểm soát nên có thể không giúp phát động nhanh hơn, mặt khác lại khiến côn thủ nhanh cạn kiệt thể lực. Nói "ưu tiên" bởi việc phát động nhanh hay chậm, vận lực hay không căn cứ phải tình huống cụ thể. Ví dụ khi cạn kiệt thể lực lại không cần tấn công ngay thì có thể phát động chậm để duy trì thể lực, ngược lại trong tình huống chiến đấu cấp bách, nếu việc vận lực không ảnh hưởng đến kiểm soát côn thì có thể vận lực để phát động nhanh tối đa.
  • Lưu ý: Đối với người chơi côn nhị khúc nghệ thuật, chỉ múa côn biểu diễn thuần túy, không mang tính võ thuật thì không cần tuân thủ nguyên tắc này, bởi nghệ thuật thì tự do.

4. Ngoài ra, tùy tình huống chiến đấu cụ thể mà côn thủ cần lưu ý đến một số nguyên tắc chiến đấu. Đấu với mỗi loại vũ khí khác nhau (dao, trường côn, baton, tonfa, ...) sẽ có nguyên tắc chiến đấu khác nhau. Côn thủ cũng cần lưu ý một số nguyên tắc vật lý học như lực ly tâm (cánh tay đòn), phản lực, ... 

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Côn nhị khúc phải|Côn nhị khúc **Côn nhị khúc** hay **côn hai đoạn** hay là **lưỡng tiết côn** hoặc **song tiết côn** hay **nhị đoản côn** (âm romaji tiếng Nhật là **nunchaku**) là một dạng
Tuyệt Kỹ Lý Tiểu Long - Côn Nhị Khúc - Hướng Dẫn Tập Luyện Và Chiến Đấu Võ thuật là một loại kỹ năng đặc biệt với kĩ thuật tinh tế và sâu sắc, nó
**Khúc côn cầu ! Khúc côn cầu !!** (tiếng Nga: _Шайбу ! Шайбу !!_) là một bộ phim hoạt hình khai thác đề tài thể thao của đạo diễn Boris Dyozhkin, ra mắt lần đầu
thế=Sư trưởng Hà Dũng; cao đồ của cụ Hà Châu, sử dụng Côn.|nhỏ|Một [[Võ sư sử dụng côn.]] **Côn** (棍) là một loại gậy được sử dụng làm binh khí phổ thông trong các hệ
**Mai Hồng Ngọc** (sinh ngày 13 tháng 10 năm 1988), thường được biết đến với nghệ danh **Đông Nhi**, là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất thu âm kiêm diễn viên người
**Hồ Hạnh Nhi** (tiếng Anh: _Myolie Wu_, sinh ngày 06 tháng 11 năm 1979) là một nữ diễn viên, ca sĩ kiêm người mẫu người Hồng Kông. Cô từng là diễn viên độc quyền của
**Trần Hà Nhi** (sinh ngày 8 tháng 2 năm 1994 tại Nghệ An), thường được biết đến với nghệ danh **Hà Nhi**, là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Cô bắt đầu được công
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**"Chú voi con ở Bản Đôn"** là ca khúc nhạc thiếu nhi được nhạc sĩ Phạm Tuyên sáng tác vào năm 1983 tại Đắk Lắk. ## Bối cảnh sáng tác Năm 1983 nhạc sĩ Phạm
**Vương Gia Nhĩ** (hay **Wang Ka-yee**, giản thể: 王嘉尔, phồn thể: 王嘉爾, bính âm: _Wáng Jiā'ěr_, Hangul: 왕 잭슨, tiếng Anh: Jackson Wang, sinh ngày 28 tháng 3 năm 1994), thường được biết đến với
**Cho con** là một ca khúc thiếu nhi được viết bởi nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu. Cùng với một số bài hát cho thiếu nhi khác, "Cho con" được coi là một trong những ca
**Tình khúc 1954 – 1975** hay **tình ca 1954 – 1975** là một dòng nhạc thuộc tân nhạc Việt Nam. Đây là khái niệm không thật chính xác để chỉ một số các ca khúc
**_Giọng hát Việt nhí_** là một cuộc thi ca hát tương tác truyền hình thực tế do Ban Sản xuất các chương trình Giải trí, Đài Truyền hình Việt Nam và Công ty Trách nhiệm
**Mùa thứ hai** của cuộc thi truyền hình thực tế _**Giọng hát Việt nhí**_ được phát sóng từ ngày 21 tháng 6 đến ngày 4 tháng 10 năm 2014 trên kênh VTV3. Các huấn luyện
**Mùa giải thứ tư** của cuộc thi truyền hình thực tế **_Giọng hát Việt nhí_** đã được phát sóng vào ngày mồng 23 tháng 7 năm 2016 đến ngày 29 tháng 10 năm 2016 trên
**_Giọng hát Việt nhí mùa 8_** hay còn được gọi là **_Giọng hát Việt nhí - New Generation 2021_** là mùa thứ tám của cuộc thi truyền hình thực tế _Giọng hát Việt nhí_ do
**Khúc côn cầu trên băng** tại **Thế vận hội Mùa đông 2018** diễn ra tại Gangneung Coastal Cluster ở Gangneung, Hàn Quốc, cụ thể là ở hai địa điểm: Gangneung Hockey Centre với 10.000 chỗ
**Hoa Thần Vũ** (tiếng Trung: 华晨宇, bính âm: Huà Chényǔ, sinh ngày 07 tháng 02 năm 1990) là một ca sĩ người Trung Quốc, tốt nghiệp đại học tại học viện âm nhạc Vũ Hán,
Giải đấu **khúc côn cầu trên băng nữ tại Thế vận hội Mùa đông 2018** diễn ra ở Gangneung, Hàn Quốc từ 10 tới 22 tháng 2 năm 2018. Có tám nước giành quyền tham
**_Giọng hát Việt nhí (mùa 1)_** là cuộc thi ca hát tương tác truyền hình thực tế, bắt đầu từ ngày 1 tháng 6 năm 2013 trên sóng VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam. Chương
Mùa giải thứ sáu của cuộc thi truyền hình thực tế **Giọng hát Việt nhí** được phát sóng vào ngày 8 tháng 9 năm 2018. Đây là mùa thi có sự đổi mới trong số
phải|sông Côn, đoạn qua An Nhơn **Sông Côn** còn gọi là **sông Kôn** hoặc **sông Kone** là dòng sông lớn nhất của tỉnh Bình Định, Việt Nam.. Sông dài 171 km. Lưu vực sông có diện
Mùa giải thứ bảy của cuộc thi truyền hình thực tế **Giọng hát Việt nhí** được phát sóng vào ngày 20 tháng 7 năm 2019. Đây là mùa thi thứ hai có sự thay đổi
Mùa giải thứ năm của cuộc thi truyền hình thực tế **Giọng hát Việt nhí** được phát sóng vào ngày 12 tháng 8 năm 2017. Các huấn luyện viên của mùa thi này gồm Vũ
**Mùa giải thứ ba** của cuộc thi truyền hình thực tế **_Giọng hát Việt nhí_** được phát sóng vào ngày 18 tháng 7 năm 2015 trên kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam. Các huấn
**Dàn hợp xướng Thiếu nhi** (tên đầy đủ: **Dàn hợp xướng Thiếu nhi mang tên V. S. Popov**, ) là một trong những dàn hợp xướng thiếu nhi nổi tiếng nhất Liên Xô cũ và
**Tiêu Ân Tuấn** (chữ Hán: 焦恩俊, sinh ngày 7 tháng 11 năm 1967) là một nam diễn viên và ca sĩ nhạc pop tiếng Quan Thoại người Đài Loan. Trong suốt sự nghiệp của mình,anh
Danh sách đĩa nhạc của nữ ca sĩ nhạc pop người Việt Nam Đông Nhi gồm 4 album phòng thu, 2 đĩa mở rộng và 56 đĩa đơn. ## Album ### Album phòng thu ##
**Con Đường Tơ Lụa** (, ) là một hệ thống các con đường buôn bán nổi tiếng đã từ hàng nghìn năm nối châu Á với châu Âu (cách hay nói là giữa phương Đông
**_Trò chơi kỳ ảo: Thăng cấp_** (tên gốc tiếng Anh: **_Jumanji: The Next Level_**) là phim điện ảnh hài phiêu lưu kỳ ảo của Mỹ năm 2019 do Jake Kasdan đạo diễn và Kasdan, Jeff
**Dung Tổ Nhi** có tên tiếng Anh là Joey Yung (sinh ngày 16 tháng 6 năm 1980 tại Hồng Kông thuộc Anh) là một nữ ca sĩ, diễn viên lồng tiếng kiêm diễn viên truyền
**Gấu mèo con** (; _Cơ-rát-ka Ia-nớt_) là một phim hoạt họa đồng thoại có phần khôi hài do Oleg Churkin đạo diễn, xuất bản năm 1974 tại Moskva. ## Lịch sử Truyện phim phỏng theo
**Nguyễn Thiện Nhân** (sinh ngày 6 tháng 10 năm 2002) là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Cô nổi danh sau khi đoạt giải quán quân của mùa thứ hai trong chương trình _Giọng
**Hồ Nhĩ Hải** (tiếng Trung: 洱海, ěrhǎi) trông giống như một cái tai. Nó là một hồ trên núi cao ở miền tây nam Trung Quốc, trong địa phận tỉnh Vân Nam, cách Côn Minh
phải|Sơ đồ vị trí những khúc thịt heo **Khúc thịt lợn** hay **khúc thịt heo**, còn được gọi là **phần cắt từ thịt heo** (tiếng Anh: cuts of pork), là sơ đồ quy ước những
nhỏ|Một võ sư đang biểu diễn thiết lĩnh|liên_kết=Special:FilePath/Thiet_linh.jpg **Thiết Lĩnh** (tiếng Trung: 鐵 領) là một loại binh khí cổ truyền của Việt Nam. Thiết Lĩnh có cấu tạo bằng hai thanh gỗ gọi là
Thực Hành Đệm Piano - Chủ Đề Ca Khúc Thiếu Nhi Phần 1 Bộ sách dành cho 2 nhóm đối tượng Học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở đang học piano và Người
Thực Hành Đệm Piano - Chủ Đề Ca Khúc Thiếu Nhi Phần 2 Bộ sách dành cho 2 nhóm đối tượng Học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở đang học piano và Người
**_Vong nhi_** (tiếng Anh: _The Fetus_) là một bộ phim điện ảnh Việt Nam thuộc thể loại tâm lýsiêu nhiênkinh dịchính kịch công chiếu vào năm 2023 do Hoàng Tuấn Cường làm đạo diễn và
**Nhiếp Nhĩ** (1912 - 1935), vốn tên là **Nhiếp Thủ Tín**, tự **Tử Nghĩa**, cũng còn được viết là **Tử Nghệ**, là một nhạc sĩ người Trung Quốc, là người đã soạn nhạc cho bài
**_Thập nhị mỹ nhân_** và **_Anh vẫn đợi chờ_**, ## Sản xuất ### Album đôi Album gồm hai CD song ca (_Thập đại mỹ nhân_) và đơn ca (_Anh_ _vẫn đợi chờ_), được thực hiện
**Nghĩa dũng quân tiến hành khúc** () là quốc ca của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được nhà thơ và soạn giả ca kịch Điền Hán viết lời và Niếp Nhĩ phổ nhạc
"**Nam nhi đương tự cường**" (chữ Hán: 男兒當自強) là bài hát chủ đề của bộ phim "Hoàng Phi Hồng" năm 1991, được chuyển thể từ bài hát cổ "Tướng quân lệnh" (將軍令) của đàn tỳ
**Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh** (chữ Nho: **河仙什景曲詠**), hay **Hà Tiên Quốc âm thập vịnh** (**河仙國音什詠**) tức _Vịnh mười cảnh đẹp Hà Tiên bằng Quốc âm_, là tên một tập thơ chữ Nôm do
nhỏ|phải|Kama **Liêm** (鎌) là một loại vũ khí biến thể từ liềm, lưỡi hái cắt lúa của các dân tộc ở đảo Okinawa Nhật Bản và hiện nay được hầu hết các môn sinh mang
Sơ đồ vị trí những khúc thịt bò theo cách xẻ thịt của [[Mỹ trong đó:
1. Chuck: Nạc vai - Màu vàng
2. Brisket: Ức - Xanh lợt
3. Rib: Lườn - Màu nâu
**Những đứa con nhà họ Kiều** (, tiếng Anh: **_The Bond_**) là một bộ phim truyền hình dài tập Trung Quốc năm 2021 dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Vị Tịch, đạo diễn bởi
**_Phong vân nhi nữ_** là một bộ phim yêu nước nổi tiếng nhất của điện ảnh Trung Quốc năm 1935. Bài hát chủ đề của bộ phim là _"Nghĩa dũng quân tiến hành khúc"_, sau
**_Vũ khúc con cò_** (tiếng Pháp: **_La Danse de la cigogne_**; tiếng Anh: **_Song of the Stork_**) là bộ phim truyện điện ảnh chính kịch đề tài chiến tranh phát hành năm 2002, do Việt
nhỏ|phải|"Cung oán ngâm khúc", bản năm 1866 của xưởng in Phú Văn. "**Cung oán ngâm khúc**" (chữ Hán: 宮怨吟曲) hay "**Cung oán ngâm**" là tác phẩm kiệt xuất của Nguyễn Gia Thiều, được viết bằng