✨Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău

Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău

Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău hay Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev (,, gọi tắt là Chiến dịch Iaşi-Chişinău hay Chiến dịch Jassy-Kishinev là một chiến dịch tấn công chiến lược của Liên Xô nhằm vào phát xít Đức và các nước phụ thuộc trong Chiến tranh Xô-Đức, diễn ra trên phần đất thuộc Moldova và phía Đông Romania ngày nay. Tên chiến dịch được đặt theo hai thành phố lớn là Iaşi và Chişinău, nơi đánh dấu vị trí diễn ra chiến dịch. Chiến dịch Iaşi-Chişinău diễn ra từ ngày 20 đến 30 tháng 8 năm 1944, do Phương diện quân Ukraina 2 và Phương diện quân Ukraina 3 thực thi chống lại Cụm Tập đoàn quân Nam Ukraina bao gồm các đơn vị Đức và Romania. Mục tiêu của chiến dịch là đánh tan Cụm Tập đoàn quân Nam Ukraina, thu hồi lãnh thổ của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldavia, mở đường vào Romania và bán đảo Balkan.

Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău là chiến dịch mở màn cho các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô trong năm 1944 tại khu vực bán đảo Balkan. Chỉ sau 10 ngày chiến đấu, quân đội Liên Xô đã đánh tan 18 trong số 26 sư đoàn Đức Quốc xã, 12 trong số 23 sư đoàn Romania. Riêng số quân Đức và Romania bị hợp vây tại "cái chảo" lớn ở phía Nam Chişinău và 5 "cái chảo" nhỏ hơn ở Huşi, Vaslui, Birlad, Onesti và Akkerman đã lên đến gần hơn 20 sư đoàn, trong đó có 16 sư đoàn Đức. Tại đó, Tập đoàn quân 6 (Đức) và các tập đoàn quân 3, 4 Romania đều là các đơn vị tái lập sau chiến dịch Stalingrad và được Hitler mệnh danh là những "đạo quân báo thù" nhưng lại bị tiêu diệt một lần nữa tại khu vực Iaşi-Chişinău. Chỉ có Tập đoàn quân 8 và Quân đoàn độc lập 17 (Đức) tạm thời tránh được các đòn tấn công ban đầu do quân đội Liên Xô không hướng mũi tấn công chính vào họ. Tuy nhiên, ở giai đoạn sau của chiến dịch, khi quân đội Liên Xô mở các mũi tấn công sang vùng Transilvania thì các đơn vị này cũng bị thiệt hại nặng, buộc phải bỏ Romania tháo chạy sang Hungary.

Chiến dịch Iaşi-Chişinău là một thắng lợi lớn của Hồng quân Liên Xô với việc toàn bộ quân Đức và Romania đồn trú trong khu vực bị bao vây và tiêu diệt, tạo tiền đề cho các cuộc tấn công chiến lược của Hồng quân vào Đông Âu trong các năm 1944 và 1945. Chiến thắng này cũng khiến Romania rời bỏ phe Trục và chuyển sang liên minh với Liên Xô, chống lại nước Đức Quốc xã. Chiến thắng này còn ảnh hưởng đến các đồng minh của Đức và các chính quyền thân Đức trong khu vực. Chính quyền thân Đức tại Bulgaria mặc dù nắm trong tay hai tập đoàn quân nhưng hầu hết sĩ quan chỉ huy các tập đoàn quân này đều đã đứng về lập trường chống lại chế độ Đức Quốc xã. Các cụm tập đoàn quân F và G của Đức ở Nam Tư và Hy Lạp bắt đầu phải tính đến việc rút khỏi bán đảo này khi phong trào chiến tranh du kích chống Đức Quốc xã phát triển và quân đội Liên Xô đang tấn công tỏa ra khắp bán đảo Balkan sau chiến dịch. Chỉ còn các chính quyền Slovakia và Hungary là vẫn giữ lập trường thân Đức và cung cấp các sư đoàn cho quân đội Đức Quốc xã chống lại Liên Xô và các đồng minh.

Bối cảnh

Tình hình quân sự

Kết quả của Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani và Chiến dịch tấn công Odessa từ đầu tháng 3 đến giữa tháng 4 năm 1944 đã đưa quân đội Liên Xô tiến ra đến biên giới với Romania. Tại cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2, các tập đoàn quân 27, 40, cận vệ 7 và xe tăng cận vệ 6 đã vượt sông Prut và tiến vào lãnh thổ Romania. 5 tập đoàn quân cánh trái của Phương diện quân Ukraina 2 và 5 tập đoàn quân của Phương diện quân Ukraina 3 đã tiến đến lãnh thổ Moldova và tuyến hạ lưu sông Danube. Cuối tháng 4, đầu tháng 5 năm 1944, Phương diện quân Ukraina 2 đã có kế hoạch mở Chiến dịch Iaşi-Paşcani nhằm đánh chiếm thành phố Iaşi trong hành tiến nhưng quân đội Đức Quốc xã đã "ra tay trước". Trong tháng 5 năm 1944, quân đội Đức Quốc xã điều động đến khu vực này các sư đoàn xe tăng 14, 23, 24, "Totenkopf" và Sư đoàn cơ giới "Đại Đức" rút từ Nam Tư và các khu vực mặt trận yên tĩnh hơn đã cùng với Sư đoàn xe tăng 13, Sư đoàn cơ giới 10 và 7 sư đoàn bộ binh tại khu vực Đông Bắc Romania ổn định được tuyến phòng thủ. Ngày 30 tháng 5, Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina (Đức) mở cuộc phản công lớn tại khu vực Iaşi-Paşcani. Ngày 9 tháng 6, quân Đức đã thọc sâu vào tuyến phòng thủ của quân đội Liên Xô 30 km và bất chấp những thiệt hại đã tung hết lực lượng dự bị chiến dịch ra để giành thắng lợi trên hướng Bălţi với ý đồ tiến vào sau lưng 4 tập đoàn quân Liên Xô đã vượt sang hữu ngạn sông Prut. Mặc dù chặn được đòn phản công của 12 sư đoàn Đức nhưng cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 (Liên Xô) cũng phải trả giá đắt trong các trận đánh phòng ngự. Nhận thấy quân đội Liên Xô trên hướng Nam không còn khả năng tấn công trong mùa hè năm 1944, nên vào đầu tháng 5 năm đó, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã điều Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 đến Phương diện quân Byelorussia 3 để chuẩn bị cho các đòn đột kích mới trong Chiến dịch Bagration, Tập đoàn quân xe tăng 4 cũng được điều đi tăng cường cho Phương diện quân Ukraina 1 để chuẩn bị mở Chiến dịch Lvov-Sandomierz.

Mặc dù đến tháng 7 năm 1944, Cụm Tập đoàn quân Nam Ukraina (Đức) vẫn sở hữu lực lượng tăng thiết giáp hùng mạnh nhất của nước Đức phát xít nhưng đến tháng 8 năm 1944, binh lực đó đã bị mỏng đi do Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã đã điều các sư đoàn xe tăng 14, 23, 24, "Totenkopf" và "Đại Đức" đến các khu vực Baltic, Byelorussia, Bắc Ukraina và Ba Lan để đối phó với cuộc tổng tấn công của quân đội Liên Xô trên hướng Byelorussia và cuộc tấn công của Phương diện quân Ukraina 1 tại Tây Bắc Ukraina và Đông Nam Ba Lan. Vì vậy, đến tháng 8 năm 1944, lực lượng tăng thiết giáp của Cụm Tập đoàn quân Nam Ukraina (Đức) chỉ còn lại các Sư đoàn xe tăng 13 và Sư đoàn bộ binh cơ giới 10 của Đức. Để bù vào sự thiếu hụt này, quân đội Đức Quốc xã đã trang bị lại cho Sư đoàn xe tăng "Đại Romania" của Romania bằng các xe tăng Đức, trong đó có hơn 80 xe tăng Tiger-I.

Tình hình chính trị

Giống như nhiều vùng đất của các quốc gia nhỏ ở châu Âu, do sự chiếm đóng, can thiệp và áp đặt của nhiều đế quốc lớn qua các thời đại nên bán đảo Balkan là vùng đất có lịch sử tranh chấp lãnh thổ rất phức tạp giữa các nước láng giềng. România trong quá khứ có tranh chấp lãnh thổ với Đế quốc Nga tại vùng Moldova và Bắc Bukovina; với Đế quốc Áo-Hung tại vùng Transilvania; với Bulgaria tại vùng Dobruja. Ngoài vùng Dobruja, Bulgaria còn có tranh chấp lãnh thổ với Nam Tư tại các vùng Dimitrovgrad, Surdulica và Bosilegrad, với Hy Lạp tại vùng Kavála. Đến lượt mình, Nam Tư cũng có tranh chấp lãnh thổ với Albania tại vùng Kosovo. Hy Lạp thì tranh chấp với Thổ Nhĩ Kỳ vùng Bizantium (Constantinopolis). Khi tiến đánh quân Đức tại Balkan, quân đội Liên Xô sẽ phải đối mặt với tất cả những mâu thuẫn chằng chịt tích tụ lại từ hàng chục thế kỷ trước đó. Trong nhật lệnh gửi quân đội và nhân dân Liên Xô ngày 1 tháng 5 năm 1944, Tổng tư lệnh I. V. Stalin nhấn mạnh:

Những tranh chấp này đã tạo nên những mâu thuẫn trong khu vực và trở thành cơ sở để các cường quốc trong thế kỷ XX chi phối với vai trò trọng tài. Theo Hiệp ước Versailles năm 1920, vùng Transilvania thuộc Romania nhưng tại Phán quyết Viên lần thứ nhất ngày 2 tháng 11 năm 1938, để tranh thủ Hungary, một đồng minh thân cận của mình, Adolf Hitler đã lấy vùng Transilvania "tặng" cho Miklós Horthy, nhiếp chính của Vương quốc Hungary. Các nước đồng minh chống phát xít, trong đó có Liên Xô phản đối việc này. Tại Hội nghị Tehran, các đồng minh đã đi đến một thỏa thuận về nguyên tắc, cần lấy đường biên giới được hình thành tại Hiệp ước Versailles 1920 làm cơ sở để giải quyết tranh chấp. Tiếp theo, các nước trong vùng cần đàm phán về đường biên giới trong sự trung gian bảo trợ của các cường quốc.

Vào giai đoạn suy tàn và đi đến sụp đổ của nước Đức Quốc xã, tình hình các nước vùng Balkan đã có nhiều động thái trái ngược nhau. Trong khi chính quyền Bulgaria của vua Boris III tự buộc chặt mình với chế độ Quốc xã thì những người cộng sản Bulgaria lại kiên trì các hoạt động chiến tranh du kích và kiểm soát được một số vùng núi trong nước. Tương tự như vậy, phong trào du kích của những người cộng sản Nam Tư do nguyên soái Josip Broz Tito lãnh đạo đã thu được thành quả lớn. Quân du kích Nam Tư đã phát triển quy mô đến 3 quân đoàn và kiểm soát nhiều vùng của đất nước. Tại Romania, trong khi Ion Antonescu "làm mình làm mẩy" với Hitler để đòi lại vùng Transilvania thì một số giới chức Romania lại tìm cách liên lạc với các đồng minh Anh - Mỹ để "mời" họ tiến vào Romania trước quân đội Liên Xô theo phương án mở mặt trận thứ hai tại Balkan mà thủ tướng Anh Winston Churchill đã đưa ra tại Hội nghị Tehran tháng 12 năm 1943 nhưng không được Liên Xô và Hoa Kỳ hưởng ứng. Trong khi đó, gần 285.000 đảng viên cộng sản Romania đang chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang để lật đổ chế độ thân phát xít ở Romania. Nhằm ngăn chặn những âm mưu thỏa thuận riêng rẽ có thể gây tác hại cho sự hiệp đồng chiến đấu giữa chính quyền cũng như quân đội các nước đồng minh, ngày 13 tháng 5 năm 1944, các nước đồng minh Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô đã cùng ra một tuyên bố mạnh mẽ gửi chính phủ thân phát xít ở các nước Hungary, Romania, Bulgaria và Phần Lan. Tuyên bố nói rõ:

Binh lực và kế hoạch

Hồng quân Liên Xô

Binh lực

Phương diện quân Ukraina 2 do Đại tướng Rodion Yakovlevich Malinovsky làm tư lệnh, Thượng tướng Matvei Vasilyevich Zakharov làm tham mưu trưởng. Tổng quân số 771.200 người. Thành phần gồm có:

  • Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 do Thiếu tướng Andrey Grigoryevich Kravchenko chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn xe tăng cận vệ 5: **Tăng, thiết giáp: Các lữ đoàn xe tăng cận vệ 20, 21, 22, các trung đoàn pháo tự hành 1416, 1462, Tiểu đoàn xe bọc thép cận vệ 127. Bộ binh cơ giới: Lữ đoàn cơ giới cận vệ 6, Tiểu đoàn mô tô trinh sát 80. *Pháo, súng cối: Trung đoàn pháo chống tăng 1667, Trung đoàn súng cối 454, Trung đoàn phòng không 1696 *Quân đoàn xe tăng 18 của Thiếu tướng V.I. Polozkov: Tăng, thiết giáp: Các lữ đoàn xe tăng 110, 170, 181; Trung đoàn pháo tự hành 1438; tiểu đoàn xe bọc thép cận vệ 106 Bộ binh cơ giới: Lữ đoàn cơ giới 32, tiểu đoàn mô tô 78 Pháo, súng cối: Trung đoàn pháo chống tăng 1000, Trung đoàn súng cối 292, Trung đoàn phòng không 1694. Quân đoàn cơ giới cận vệ 5: **Bộ binh cơ giới: Các lữ đoàn cơ giới cận vệ 2, 9, 45; Tiểu đoàn mô tô trinh sát 64; Tăng, thiết giáp: Lữ đoàn xe tăng 233, các trung đoàn pháo tự hành 697, 745, 1494, Tiểu đoàn xe bọc thép cận vệ 35; *Pháo, súng cối: Trung đoàn súng cối 485, Trung đoàn phòng không 1700. *Các đơn vị trực thuộc tập đoàn quân: Lữ đoàn pháo binh 6 Trung đoàn xe tăng 145 Trung đoàn xe bọc thép 4 Tiểu đoàn công binh 181. Cụm quân kỵ binh cơ giới do Thượng tướng Issa Aleksandrovich Pliyev chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn kỵ binh cận vệ 4: Kỵ binh: Sư đoàn cận vệ 9, các sư đoàn 10, 30 Thiết giáp: Các trung đoàn xe tăng 128, 134, 151, Trung đoàn pháo tự hành 1815 *Pháo binh: Trung đoàn Katyusha cận vệ 12, Trung đoàn pháo chống tăng 152, Trung đoàn phòng không 255, Trung đoàn súng cối cận vệ 48 *Quân đoàn kỵ binh cận vệ 5: Kỵ binh: Các sư đoàn cận vệ 11, 12 và Sư đoàn 63 Thiết giáp: Trung đoàn pháo tự hành 1896, Tiểu đoàn xe tăng độc lập cận vệ 5 Cơ giới: Tiểu đoàn mô tô cận vệ 9 *Pháo binh: Trung đoàn pháo chống tăng cận vệ 150, Trung đoàn súng cối cận vệ 72, Trung đoàn phòng không 585. *Quân đoàn cơ giới 8 Bộ binh cơ giới: các lữ đoàn cơ giới 16, 63, 64, Tiểu đoàn mô tô 94, Thiết giáp: Lữ đoàn xe tăng 41; các trung đoàn pháo tự hành 1289, 1440; Tiểu đoàn xe bọc thép cận vệ 40. Pháo binh: Trung đoàn pháo chống tăng 109, Trung đoàn súng cối; Trung đoàn phòng không 1713. *Tập đoàn quân cận vệ 4 do trung tướng Ivan Vasilyevich Galanin chỉ huy. Trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 20 gồm các sư đoàn đổ bộ đường không cận vệ 5, 7 và Sư đoàn bộ binh cận vệ 41 Quân đoàn bộ binh cận vệ 21 gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 62, 69 và 80. Quân đoàn bộ binh 78 gồm các sư đoàn bộ binh 31, 252 và 303. Pháo, súng cối: Lữ đoàn lựu pháo 123; các trung đoàn pháo chống tăng 438, 452, 1332; các trung đoàn súng cối 466, 493. Pháo phòng không: Sư đoàn 27 gồm các trung đoàn 1354, 1358 1364, 1370. *Công binh: Lữ đoàn công binh hỗn hợp 56 Tập đoàn quân cận vệ 7 do trung tướng Mikhail Stepanovich Shumilov chỉ huy, trong biên chế có: Bộ binh: Quân đoàn cận vệ 24 gồm Sư đoàn bộ binh cận vệ 72 và Sư đoàn bộ binh 6. Quân đoàn bộ binh cận vệ 25 gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 6, 8 và Sư đoàn bộ binh 36 Trực thuộc tập đoàn quân: Các sư đoàn bộ binh 53 và 81. Pháo, súng cối: Sư đoàn pháo binh hỗn hợp 16 (gồm Lữ đoàn pháo nòng dài 49, Lữ đoàn lựu pháo 61, Lữ đoàn sơn pháo 52, Lữ đoàn pháo chống tăng 90 và Lữ đoàn Katyusha 109), Lữ đoàn lựu pháo cận vệ 41, Lữ đoàn pháo chống tăng 30; các trung đoàn pháo chống tăng cận vệ 114 và 115, các trung đoàn súng cối 263 và 290. Pháo phòng không: Sư đoàn 5 gồm các trung đoàn pháo binh phòng không 670, 743, 1119 và 1181; Trung đoàn phòng không độc lập 162. Thiết giáp: Lữ đoàn xe tăng 27, Trung đoàn xe bọc thép 38. Công binh: Lữ đoàn công binh hỗn hợp 60. Tập đoàn quân 27 do trung tướng (từ 13-9-1944 là thượng tướng) Sergey Grigorysvich Trofimenko chỉ huy. Trong biên chế có: Bộ binh: Quân đoàn cận vệ 35 gồm các sư đoàn 93, 180, 202. Quân đoàn 33 gồm Sư đoàn bộ binh cận vệ 33 và các sư đoàn 78, 337. *Sư đoàn bộ binh 206 (trực thuộc) Pháo, súng cối: Sư đoàn pháo binh 11 gồm lữ đoàn pháo nòng dài 31, lữ đoàn lựu pháo 45, lữ đoàn sơn pháo 49; Lữ đoàn lựu pháo 27, Lữ đoàn pháo chống tăng 34, các trung đoàn pháo chống tăng 881, 1669, các trung đoàn súng cối 480, 492. ''Pháo phòng không: các trung đoàn 225 (cận vệ), 247 và 1357. Thiết giáp: Trung đoàn xe tăng 25, Trung đoàn pháo tự hành chống tăng cận vệ 375. Công binh: Lữ đoàn công binh hỗn hợp 43. *Phòng hóa: Các tiểu đoàn 3, 27 Tập đoàn quân 40 do trung tướng Filip Feodosyevich Zhmachenko chỉ huy. Trong biên chế có: Bộ binh: Quân đoàn 50 gồm các sư đoàn 74, 164 và 240 Quân đoàn 51 gồm các sư đoàn 42, 133 và 232 *Quân đoàn 104 gồm Sư đoàn đổ bộ đường không 4, các sư đoàn bộ binh 38 và 54. Pháo, súng cối: Lữ đoàn lựu pháo 153, Trung đoàn pháo chống tăng 680, Trung đoàn súng cối 10. Pháo phòng không: Sư đoàn 9 gồm các trung đoàn 800, 974, 981 và 993. Thiết giáp: Trung đoàn xe bọc thép 34 Công binh: Lữ đoàn công binh hỗn hợp 4 *Phòng hóa: Các tiểu đoàn 4, 21 và 176. Tập đoàn quân 52 do trung tướng Konstantin Apollonovich Koroteev chỉ huy. Trong biên chế có: Bộ binh: Quân đoàn 48 gồm các sư đoàn 213 và 294. Quân đoàn 73 gồm các sư đoàn 50, 111 và 373 Trực thuộc tập đoàn quân: Các sư đoàn bộ binh 116 và 254. Pháo, súng cối: Lữ đoàn lựu pháo 145, Lữ đoàn sơn pháo 97; các lữ đoàn pháo chống tăng 2 và 11, các trung đoàn pháo chống tăng 315 (cận vệ) và 301, Trung đoàn súng cối 490 Pháo phòng không: Sư đoàn 38 gồm các trung đoàn 1401, 1405, 1409 và 1712. Thiết giáp: Trung đoàn xe bọc thép 61 Công binh: Lữ đoàn công binh hỗn hợp 68 Tập đoàn quân 53 do trung tướng Ivan Mefodievich Managarov chỉ huy. Trong biên chế có: Bộ binh: Quân đoàn cận vệ 26 gồm các sư đoàn cận vệ 89 và 94. Quân đoàn 49 gồm Sư đoàn đổ bộ đường không cận vệ 1 và các sư đoàn bộ binh 110 (cận vệ), 375. Quân đoàn 75 gồm các sư đoàn 25 (cận vệ), 233 và 299. Pháo, súng cối: Lữ đoàn lựu pháo 152, Lữ đoàn pháo chống tăng 31, Trung đoàn pháo chống tăng 1316, Trung đoàn súng cối 461. Pháo phòng không: Sư đoàn 30 gồm các trung đoàn 1361, 1367, 1373 và 1375. Tập đoàn quân không quân 5 do thượng tướng Sergey Kondratievich Goryunov chỉ huy, thành phần gồm có: Máy bay tiêm kích: Quân đoàn 4 gồm các sư đoàn 13 (cận vệ) và 302 Quân đoàn 7 gồm các sư đoàn 9 (cận vệ), 205 và 304, Sư đoàn 12. Máy bay cường kích: **Quân đoàn cận vệ 1 gồm các sư đoàn cận vệ 8 và 9. Quân đoàn 2 gồm các sư đoàn 7 (cận vệ) và 231. Máy bay ném bom: Quân đoàn cận vệ 2 gồm các sư đoàn cận vệ 1, 8 và Sư đoàn 218. *Các đơn vị trực thuộc phương diện quân: *Bộ binh: Quân đoàn cận vệ 27 gồm các sư đoàn 214, 297 và 409 Quân đoàn 57 gồm các sư đoàn 203, 228 và 243 сд Sư đoàn bộ binh Romania 1 mang tên Tudo Vladimirescu. Pháo, súng cối: Lữ đoàn pháo hạng nặng 98, các lữ đoàn phóng chống tăng 12, 22; Sư đoàn súng cối cận vệ 6 gồm các lữ đoàn cận vệ 8, 27 và 33; các trung đoàn súng cối cận vệ 16, 17, 47, 48, 57, 66, 80, 96, 97, 302, 309, 324 và 328 Pháo phòng không: Sư đoàn 11 gồm các trung đoàn 804, 976, 987 và 996. Sư đoàn 26 gồm các trung đoàn 1352, 1363 và 1369. *Các trung đoàn 272 (cận vệ), 257, 459 và 622. Thiết giáp: Quân đoàn xe tăng 23 của Trung tướng A. O. Akhmanov gồm các lữ đoàn xe tăng 3, 39, 125; Trung đoàn pháo tự hành 1443; Tiểu đoàn xe bọc thép 442; Lữ đoàn cơ giới 56; Tiểu đoàn trinh sát mô tô 82; Trung đoàn lựu pháo 739; Trung đoàn pháo chống tăng 1501; Trung đoàn súng cối 457 và Trung đoàn phòng không 1697. **Công binh: các lữ đoàn hỗn hợp 5 và 17, Lữ đoàn phà-cano 14, Lữ đoàn cầu phao 27, các lữ đoàn công trình 1 và 2, Trung đoàn kỹ thuật xe tăng 8, Các tiểu đoàn công trình 61, 72, các tiểu đoàn rà phá mìn 7, 25, 32, 40, 49 và 125.

Phương diện quân Ukraina 3 do đại tướng Fyodor Ivanovich Tolbukhin làm tư lệnh, trung tướng Sergey Semyonovich Biryuzov làm tham mưu trưởng. Tổng quân số 523.000 người. Thành phần gồm có: Tập đoàn quân xung kích 5 do trung tướng Nikolai Erastovich Berzarin chỉ huy. Trong biên chế có: Bộ binh: Quân đoàn cận vệ 10 gồm các sư đoàn cận vệ 49, 86 và 109. Quân đoàn 32 gồm các sư đoàn 60 (cận vệ), 295 và 416 сд. Trực thuộc tập đoàn quân: Các sư đoàn 248 và 266. Pháo, súng cối: Lữ đoàn lựu pháo cận vệ 44, Trung đoàn Katyusha cận vệ 92, các trung đoàn pháo chống tăng 507 và 521, Trung đoàn súng cói 489 Pháo phòng không: Trung đoàn 1617 Tập đoàn quân 37 do Trung tướng Mikhail Nikolayevich Sharokhin chỉ huy. Trong biên chế có: Bộ binh: Quân đoàn cận vệ 6 gồm Sư đoàn đổ bộ đường không cận vệ 10, Sư đoàn cận vệ 20 và sư đoàn 195. Quân đoàn 66 gồm các sư đoàn 61 (cận vệ), 244 và 333 Quân đoàn 82 gồm các sư đoàn cận vệ 28,92 và Sư đoàn 188. Pháo, súng cối: Lữ đoàn pháo nòng dài cận vệ 46, Trung đoàn Katyusha cận vệ 42, Trung đoàn lựu pháo 152, các trung đoàn pháo chống tăng 184, 324 và 1248, các trung đoàn súng cối 251, 531, 562 Pháo phòng không: các trung 586 và 1587 Công binh: Lữ đoàn công binh hỗn hợp 8. *Tập đoàn quân 46 do Trung tướng Ivan Timofeyevich Shlemin *Bộ binh: Quân đoàn 34 gồm các sư đoàn 236, 353, 394 Quân đoàn 37 gồm các sư đoàn cận vệ 59, 108 và sư đoàn 320 Sư đoàn 259 (trực thuộc) Pháo, súng cối: Lữ đoàn lựu pháo cận vệ 45, Trung đoàn pháo nòng dài 274, các trung đoàn pháo chống tăng 437, 1312, Trung đoàn súng cối 462. Pháo phòng không: Trung đoàn 1651. Công binh: Lữ đoàn hỗn hợp 51. *Tập đoàn quân 57 do Trung tướng Nikolai Aleksandrovich Gagen chỉ huy, trong biên chế có: *Bộ binh: Quân đoàn 9 gồm các sư đoàn 230 và 301 Quân đoàn 64 gồm các sư đoàn 73 (cận vệ), 19 và 52 Quân đoàn 68 gồm các sư đoàn 93, 113 và 223. Pháo, súng cối: Lữ đoàn lựu pháo 160, các trung đoàn pháo chóng tăng 374, 595 và 1008, Trung đoàn súng cối 523. ''Pháo phòng không: Các trung đoàn 258 (cận vệ), 71 và tiểu đoàn súng máy cao xạ 227. Thiết giáp: Lữ đoàn xe tăng 96 Công binh: Lữ đoàn hỗn hợp 65. Tập đoàn quân không quân 17 do thượng tướng Vladimir Aleksandrovich Sudet chỉ huy, thành phần gồm có: Quân đoàn cận vệ 1 gồm các sư đoàn cận vệ 5, 6 (tiêm kích) và 11 (cường kích) ''Quân đoàn 9 gồm các sư đoàn 305, 306 (cường kích) và 295 (tiêm kích) ''Trực thuộc tập đoàn quân: Sư đoàn ném bom 244, các sư đoàn tiêm kích 236, 288, Sư đoàn ném bom ban đêm 262, Trung đoàn ném bom ban đêm 371. Các đơn vị trực thuộc phương diện quân Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 do thiếu tướng Vladimir Ivanovich Zhdanov chỉ huy gồm có: Bộ binh cơ giới: Các lữ đoàn cận vệ 13, 14 và 15, Tiểu đoàn mô tô 62. Thiết giáp: Lữ đoàn xe tăng cận vệ 36, Trung đoàn pháo tự hành cận vệ 292, Tiểu đoàn xe bọc thép cận vệ 129 *Pháo binh: Trung đoàn pháo chóng tăng 1512, Trung đoàn súng cối 748, Trung đoàn phòng không 740. *''Quân đoàn cơ giới cận vệ 7 do thiếu tướng F.G. Katkov chỉ huy gồm có: Bộ binh cơ giới: Các lữ đoàn cận vệ 24, 25 và 26, Tiểu đoàn mô tô cận vệ 5 Thiết giáp: Lữ đoàn xe tăng cận vệ 57, các trung đoàn pháo tự hành 291 (cận vệ) và 1820, tiểu đoàn xe bọc thép cận vệ 410. Pháo binh: Trung đoàn súng cối cận vệ 468, Trung đoàn phòng không cận vệ 288. **Quân đoàn bộ binh cận vệ 6 *Hạm đội Biển Đen do đô đốc Fillip Sergeyevich Oktyabrskiy chỉ huy. Tổng quân số khoảng 20.000 người Trong biên chế có 1 soái hạm, 4 tàu tuần dương, 6 tàu khu trục, 30 tàu ngầm, 440 tàu hộ tống, tàu tuần tra, tàu vớt mìn, tàu vận tải các loại và 691 máy bay. **Giang đoàn Danub do phó đô đốc Sergey Georgyevich Goshkov chỉ huy. Trong biên chế có 6 tàu hộ tống, 22 tàu phóng hỏa tiễn, 37 xuồng phóng lôi, 24 ca nô chiến đấu, 6 tàu vớt mìn, 36 tàu kéo, 21 sà lan, 11 tàu vận tải pha sông biển, 25 phà các loại.

Kế hoạch

Kế hoạch của Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Liên Xô Stavka là mở một đòn tấn công gọng kìm kép do Phương diện quân Ukraina 2 và 3 thực thi.

Phương diện quân Ukraina 2 sử dụng thê đội 1 gồm Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6, Tập đoàn quân cận vệ 7, các tập đoàn quân 27 và 52 có nhiệm vụ đột phá từ dải Paşcani - Târgu Frumos - Petreşti xuống phía Nam, đánh chiếm Iaşi. Tập đoàn quân cận vệ 4 có nhiệm vụ đột kích thẳng từ phía Bắc dọc theo tả ngạn sông Prut vào phía Bắc Chişinău nhằm giam chân Tập đoàn quân 6 (Đức) tại đây. Sau đó, các lực lượng cơ động gồm Cụm kỵ binh cơ giới của Pliyev và Quân đoàn xe tăng 23 phải tấn công xuống phía Nam, đánh chiếm bờ sông Prut trước khi tàn quân Đức kịp chạy về đây. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 lợi dụng cửa mở tự nhiên qua đèo Focşani để vượt qua dãy núi Khushi Mare tiếp tục tấn công đánh chiếm các bàn đạp vượt sông Siret, vô hiệu hóa tuyến phòng thủ thứ hai của liên quân Đức - Romania ở bờ Tây sông Siret. Riêng Quân đoàn xe tăng 18 (thuộc Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6) được tách ra để phối hợp với Tập đoàn quân 52 bao vây các lực lượng Đức tại Chişinău từ phía Tây và Tây Nam. Tập đoàn quân 53 là nhiệm vụ ở thê đội 2, sẵn sàng cơ động đột phá trong dải tấn công của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 để khoan sâu mũi đột kích.

Tập đoàn quân 40 bên cánh cực hữu của Phương diện quân Ukraina được giao nhiệm vụ kiềm chế Tập đoàn quân 8 và Quân đoàn bộ binh 17 (Đức), sẵn sàng vượt sông Moldova tấn công các đơn vị này khi phát hiện chúng có dấu hiệu rút đi để chi viện cho hướng Iaşi-Chişinău. Sau khi bao vây và tiêu diệt chủ lực của liên quân Đức - Romania tại đây, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 và Tập đoàn quân đoàn cận vệ 4 sẽ tiến về giải phóng Bucharest và vựa dầu Ploieşti của Romania. Việc bảo vệ khu công nghiệp dầu mỏ Ploieşti là nhiệm vụ rất quan trọng, nó không chỉ có ích cho quân đội Liên Xô trong các chiến dịch cuối cùng để đánh bại hoàn toàn quân đội Đức Quốc xã mà còn hết sức cần thiết cho nước Romania độc lập, tự do trong tương lai. Vì vậy, đại tướng R. Ya. Malinovsky được Đại bản doanh giao nhiệm vụ phải phối hợp chặt chẽ với các tổ chức kháng chiến của Đảng Cộng sản Romania để bảo vệ khu vực dầu mỏ này, ngăn chặn quân Đức phá hoại. Quân đội Liên Xô cũng đề nghị không quân đồng minh loại thủ đô Bucharest và khu công nghiệp dầu mỏ Ploieşti khỏi danh sách các mục tiêu ném bom. Tập đoàn quân không quân 5 và Tập đoàn quân không quân 17 cũng được lệnh dành ra hai sư đoàn tiêm kích để bảo vệ từ trên không đối với Bucharest và Ploieşti.

Rút kinh nghiệm các trận đánh thất bại trong Chiến dịch Iaşi-Paşcani, lần này, quân đội Liên Xô chuẩn bị kỹ lưỡng và chu đáo hơn cho chiến dịch. Các sư đoàn bộ binh đều được bảo đảm quân số từ 7.500 người trở lên. Các quân đoàn xe tăng và cơ giới đều được biên chế đủ xe tăng và pháo tự hành, được bảo đảm từ 5 đến 7 cơ số đạn dược và từ 8 đến 12 cơ số xăng dầu. Phương diện quân Ukraina 2 có 1.283 xe tăng và pháo tự hành. Phương diện quân Ukraina 3 có 591 xe tăng và pháo tự hành. Mật độ trung bình đạt 17 xe tăng/km chính diện. Riêng khu vực đột phá có thể đạt mật độ 50 xe/km (ở Phương diện quân Ukraina 2) và 30 xe/km (ở Phương diện quân Ukraina 3). Quân đội Liên Xô đã tích lũy đạn pháo và súng cối trong suốt mùa hè năm 1944 nhằm bảo đảm cho chiến dịch từ 15 đến 20 cơ số, đủ để pháo kích liên tục trong nhiều giờ. Tại cuộc họp ở Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô để thẩm định và phê duyệt kế hoạch chiến dịch, khi được đại tướng R. Ya. Malinovsky báo cáo rằng trên chính diện đột phá khẩu rộng 22 km đã bố trí đến 220 nòng pháo trên 1 km chính diện thì Stalin cho rằng như thế vẫn còn ít. Ông đề nghị thu hẹp đột phá khẩu còn 16 km để đạt đến mật độ 240 khẩu pháo/km chính diện. Mật độ pháo binh khai hỏa của Phương diện quân Ukraina 3 cũng đạt đến 220 nòng pháo/km chính diện đột phá. Cũng tại cuộc họp này, Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh Liên Xô đã yêu cầu tư lệnh các phương diện quân Ukraina 2 và 3 hãy tập trung sức mạnh vào các khu vực cửa mở để tăng sức mạnh đột phá. Xét riêng về quân số, tỷ lệ chung giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức-Romania chỉ đạt 1,2/1 nhưng tại cửa đột phá là 6/1. Về xe tăng, ưu thế chung là 1,4/1 tăng lên 5,4/1 ở đột phá khẩu. Về pháo nòng dài và lựu pháo, ưu thế chung là 1,3/1 nhưng đạt đến 5,5/1 trên hướng tấn công chính. Về súng cối có cỡ nòng từ 81 mm trở lên, ưu thế này được nâng từ 1,9/1 lên 6,7/1. Quân đội Liên Xô cũng chiếm ưu thế 3/1 về máy bay. Điều đó bảo đảm phá vỡ nghiêm trọng các tuyến phòng thủ của liên quân Đức-Romania trong những giờ tấn công đầu tiên và nhanh chóng hợp vây các cụm quân Đức. Phía sau các lực lượng đó, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliyev được chuyển gấp từ Phương diện quân Byelorussia 1 đến Phương diện quân Ukraina 3 đã khởi hành ngày 24 tháng 8 từ Lyublin, dự kiến sẽ đến mặt trận sau 3 ngày hành quân bằng tàu hỏa.

Quân đội Đức Quốc xã và Romania

Binh lực

Cụm Tập đoàn quân Nam Ukraina do Đại tướng Johannes Frießner chỉ huy. Binh lực gồm có:

Trực thuộc tư lệnh Cụm tập đoàn quân: Quân đoàn đặc nhiệm 72 của Thượng tướng Bộ binh Sigismund von Förster, thành phần gồm có: Sư đoàn bộ binh sơn chiến 5 của Trung tướng Botho Graf von Hülsen gồm các trung đoàn 5, 9 và trung đoàn pháo binh 5 Sư đoàn bộ binh 370 của Trung tướng Hermann Böhme, gồm các trung đoàn bộ binh 666, 667, 668, Trung đoàn pháo binh 370, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, trinh sát, công binh, thông tin. Sư đoàn cơ giới 10 của Trung tướng August Schmidt, gồm các trung đoàn cơ giới 20, 41, Trung đoàn xe tăng 7, Trung đoàn pháo tự hành 10, Trung đoàn pháo binh 110, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, trinh sát, công binh, thông tin. Sư đoàn bộ binh 153 của Trung tướng Friedrich Bayer, gồm các trung đoàn bộ binh 23, 218, 257, Trung đoàn pháo binh 3, Trung đoàn pháo chống tăng 453, Trung đoàn súng cối 153, các tiểu đoàn cơ giới, trinh sát, công binh, thông tin. ''Sư đoàn bộ binh 1 Slovakia'. Lữ đoàn pháo tự hành 286. Lữ đoàn pháo binh hỗn hợp 595. Sư đoàn xe tăng 13 của Trung tướng Hans Tröger, gồm các trung đoàn xe tăng 4, 66, 93, Trung đoàn pháo tự hành 13, Trung đoàn pháo binh 271, Trung đoàn cơ giới 4, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, trinh sát, công binh, thông tin. Sư đoàn bộ binh 258 của Trung tướng Eugen Bleyer gồm các trung đoàn bộ binh 478, 499 và Cụm tác chiến sư đoàn 387 (gồm tàn quân của Sư đoàn 387). Trung đoàn pháo binh 258, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, trinh sát, công binh, thông tin. Sư đoàn kỵ binh 1 Romania. Tập đoàn quân Romania 3 do Đại tướng (General de armată) Petre Dumitrescu chỉ huy. Thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh 2 Romania gồm Sư đoàn bộ binh 9 Romania và Cụm tác chiến cửa sông Danub Quân đoàn bộ binh 3 Romania gồm các sư đoàn bộ binh 2, 16 và 110 Romania Quân đoàn bộ binh 29 (Đức) của Trung tướng Anton-Reichard Freiherr von Mauchenheim gồm Sư đoàn bộ binh 9 (Đức), Sư đoàn bộ binh 21 Romania và Lữ đoàn bộ binh 4 Romania. Sư đoàn bộ binh 15 Romania (trực thuộc). Tập đoàn quân 6 (Đức) do Thượng tướng Pháo binh Maximilian Fretter-Pico chỉ huy. Thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh 30 của Trung tướng Georg-Wilhelm Postel gồm các sư đoàn bộ binh 15, 257, 302, 306 và 384 Quân đoàn bộ binh 52 của Thượng tướng Bộ binh Erich Buschenhagen gồm các sư đoàn bộ binh 161, 294 và 320. Quân đoàn bộ binh 44 của Thượng tướng Pháo binh Maximilian de Angelis gồm các sư đoàn bộ binh 62, 282 và 335. Quân đoàn bộ binh hỗn hợp 7 của Thượng tướng Pháo binh Ernst-Eberhard Hell gồm Sư đoàn bộ binh 14 (Romania) và Sư đoàn bộ binh 106 (Đức) Tập đoàn quân 8 (Đức) do Thượng tướng Bộ binh Otto Wöhler chỉ huy. Thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh hỗn hợp 4 (còn gọi là Cụm tác chiến Mieth) của Thượng tướng Bộ binh Friedrich Mieth gồm các sư đoàn bộ binh 79, 376 (Đức) và Sư đoàn bộ binh 11 (Romania) Quân đoàn bộ binh 4 Romania của Trung tướng (General de corp de armată) Ioan Mihail Racoviţă gồm Sư đoàn kỵ binh 5 Romania, Các sư đoàn bộ binh 3, 7 Romania và Lữ đoàn cơ giới 102 Romania. Sư đoàn xe tăng "Đại Romania" (trực thuộc) Sư đoàn bộ binh 8 Romania (trực thuộc) Sư đoàn bộ binh 18 Romania (trực thuộc). *Tập đoàn quân 4 Romania do Trung tướng (General de corp de armată) Gheorghe Avramescu (đến ngày 23 tháng 8) và Trung tướng (General de corp de armată) Ilie Șteflea (Tổng tham mưu trưởng quân đội Romania trước tháng 10 năm 1944). Thành phần gồm có: Cụm tác chiến Kirchner (nguyên là Quân đoàn xe tăng 57) của Thượng tướng Thiết giáp Friedrich Kirchner gồm Sư đoàn xe tăng 20, Sư đoàn bộ binh sơn chiến 4, tàn quân của Sư đoàn bộ binh 76 và Cụm tác chiến sư đoàn Winkler. Quân đoàn bộ binh 6 Romania gồm các Sư đoàn bộ binh 1, 5 Romania, Sư đoàn bộ binh 46 Đức, Sư đoàn bộ binh 13 Romania và lữ đoàn cơ giới 101 Romania. Quân đoàn bộ binh 5 Romania gồm các sư đoàn bộ binh sơn chiến 1, 4 Romania. *''Quân đoàn Bộ binh 1 Romania gồm các sư đoàn bộ binh 6, 7, 20 Romania và các lữ đoàn cơ giới 103, 104 Romania. Quân đoàn bộ binh độc lập 17** (tái lập) của Thượng tướng Sơn cước Hans Kreysing gồm Sư đoàn bộ binh sơn chiến 3, Sư đoàn bộ binh xung kích 8 và Cụm tác chiến Welker.

Kế hoạch

Trong số các tướng lĩnh Đức Quốc xã, tướng Johannes Frießner được đánh giá là có năng lực chỉ huy tốt, giàu kinh nghiệm và có kiến thức rộng.. Tuy nhiên, cũng như một số tướng lĩnh có tài năng khác của chế độ Quốc xã Đức, ông ta hay cãi lại Quốc trưởng Adolf Hitler. Và kết quả của một trong các cuộc tranh cãi đó tại Tổng hành dinh Rastenburg đã làm cho Johannes Frießner bị điều từ Cụm tập đoàn quân "Bắc" (Đức) đến Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina, nơi sắp phải hứng chịu một trong mười đòn tấn công của I. V. Stalin trong giai đoạn cuối của chiến tranh Xô-Đức. Tiếp quản một gia tài bị "rút ruột" nghiêm trọng từ tay tướng Ferdinand Schörner với 5 sư đoàn xe tăng đã bị điều đến Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức), Johannes Frießner phải dựa vào các công trình phòng thủ cố định để tổ chức phòng ngự tại chỗ thay cho việc phòng ngự cơ động do thiếu xe tăng.

Tình hình chính trị phức tạp ở Romania đã gây những khó khăn không nhỏ cho các tướng lĩnh Đức Quốc xã và Romania thân Đức trong việc ổn định tâm trạng của quân đội. Ngay từ ngày 6 tháng 8 năm 1944, tướng Johannes Frießner đã gửi báo cáo cảnh báo cho Berlin về sự không trung thành trong chính phủ của Ion Antonescu, về việc thủ tướng Romania đã để cho quá nhiều phần tử chống Đức Quốc xã lọt vào chính phủ và quân đội Romania, rằng trên mặt trận các binh sĩ Romania và cả lính Đức đang bí mật truyền tay nhau những tờ truyền đơn của các "quân phiến loạn bí mật" ở Romania (ám chỉ Đảng Cộng sản Romania). Những lời bàn tán trong dư luận âm ỷ về việc Romania sẽ theo Anh-Mỹ hay theo Đức cũng được các sĩ quan Romania nửa kín nửa hở trao đổi với nhau. Tuy nhiên, cũng như tại Baltic, Adolf Hitler cho rằng Johannes Frießner có cái nhìn bi quan, rằng viên tướng này nên hướng đôi mắt về tương lai để khỏi bị lạc hậu.

Diễn biến

nhỏ|Bản đồ các chiến dịch tấn công của quân đội Liên Xô tại Balkan trong thu-đông năm 1944 Hồi 6 giờ 10 phút ngày 20 tháng 8, tại Phương diện quân Ukraina 2 và hồi 8 giờ 00 cùng ngày tại Phương diện quân Ukraina 3, hớn 12 nghìn khẩu pháo, súng cối cùng hàng trăm dàn Katyusha đồng loạt khai hỏa, mở màn cho chiến dịch. Các trận pháo kích kéo dài đến 2 tiếng rưỡi đồng hồ. Giống như tại Stalingrad, các công trình phòng thủ kiên cố và bán kiên cố của quân Đức và Romania trên tuyến đầu lần lượt sụp đổ dưới làn hỏa lực pháo binh có mật độ đạn rơi dày đặc chưa từng thấy kể từ khi bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ hai. Trên hướng Biển Đen, pháo và hỏa tiễn Katyusha từ các hạm tàu của Hải quân Liên Xô cũng nã đạn liên tục vào các vị trí phòng thủ của quân Đức và Romania từ pháo đài Akkerman đến cảng cá Vilkovo. Bị không quân của Hạm đội Biển Đen (Liên Xô) khống chế, hải quân Romania hoàn toàn bất lực trước các chiến hạm Liên Xô. Cụm quân đổ bộ gồm các lữ đoàn hải quân đánh bộ 83 và 255, Trung đoàn cơ giới 3 và Trung đoàn xe bọc thép lội nước 252 đã sẵn sàng trên các tàu đổ bộ và sà lan, chờ lệnh cập bờ.

Hướng Iaşi - Ploieşti

Bản đồ các trận tấn công của quân đội Liên Xô từ ngày 23 đến ngày 31 tháng 8 năm 1944

8 giờ 54 phút sáng 20 tháng 8, các tập đoàn quân 27 và 52 trên cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 đã tung ra đòn đột kích tổng lực vào 4 sư đoàn Đức và Romania đã phòng thủ tại Târgu Frumos. Trong ba giờ tấn công đầu tiên, Quân đoàn bộ binh cận vệ 35 đã chiếm được 3 tuyến chiến hào phòng thủ của quân Đức và Romania. Trên khắp trận địa bị cày xới nhiều lần bởi các loạt bom và đạn pháo, một số hỏa điểm lẻ của quân Đức vẫn còn bắn trả trước khi bị bộ binh Liên Xô tràn qua và dập tắt. Xế chiếu ngày 20 tháng 8, Quân đoàn bộ binh 33 được đưa vào trận đã mở một đòn đột kích vượt qua phía Tây Iaşi và áp sát phòng tuyến núi Mare của quân Đức. Ngay trong ngày tấn công đầu tiên, Tập đoàn quân 27 đã khoét một lỗ thủng rộng 20 km sâu đến 16 km vào tuyến phòng thủ của liên quân Đức-Romania trên hướng Satu-Mare (???) và vượt sông Bahlui trong hành tiến. Thắng lợi nhanh chóng này đã khiến Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 2 đi đến kết luận là cần tung ngay Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 vào cửa đột phá để phát triển tấn công đến dãy núi Mare mà không cần đợi đến ngày hôm sau như kế hoạch đã định.

Cuộc tấn công của Tập đoàn quân 52 cũng thu được thắng lợi vượt ngoài mong đợi. Sau khi giải quyết xong cụm cứ điểm Đông Târgu Frumos chỉ trong hai giờ, Quân đoàn bộ binh 48 bắt đầu tiếp cận ngoại ô Iaşi. Chiều 20 tháng 8, Quân đoàn xe tăng 18 được lệnh tách khỏi đội hình Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 sang hỗ trợ cho Tập đoàn quân 52. 15 giờ ngày 21 tháng 8, Quân đoàn xe tăng 18 và Quân đoàn bộ binh 48 đã giải phóng Iaşi. Bộ tư lệnh Tập đoàn quân 52 lập tức điều Quân đoàn bộ binh 73 vượt lên phía trước, bám theo Quân đoàn xe tăng 18 để chiếm các bến vượt qua sông Prut tại khu vực Huşi - Vaslui. Trong báo cáo chiến sự hàng ngày gửi về Đại bản doanh, Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 2 cho biết họ đã đánh tan 6 sư đoàn Đức và Romania dọc theo dãy núi Mare và đã đột kích sâu từ 25 đến 40 km vào phía trong các tuyến phòng thủ của đối phương.

Tuy nhiên, đến cuối ngày 21 tháng 8, các tin tức về cuộc đột kích không thuận lợi của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 bắt đầu gây lo lắng cho Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô. Riêng I. V. Stalin vẫn tỏ ra lạc quan, ông cho rằng vào buổi sáng, con người ta sẽ không ngoan hơn buổi chiều. Tuy nhiên, đến sáng 22 tháng 8, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 vẫn chưa đột phá được dải phòng ngự của quân Đức trên tuyến Huşi - Vaslui. Tướng R. Ya. Malinovsky điều động cả hai quân đoàn bộ binh của Tập đoàn quân 52 phối hợp với Quân đoàn xe tăng 18 đánh bọc hậu vào Huşi nhưng vẫn không vượt qua được hàng rào xe tăng của quân Đức và Romania.

Tướng Johannes Frießner nhận được tin báo về đòn đột kích sâu của xe tăng Liên Xô tại khu vực Iaşi vào chiều ngày 20 tháng 8 khi ông ta đang có cuộc họp với Thủ tướng Romania Ion Antonescu khiến cuộc họp phải bỏ dở. Từ tối 20 đến sáng 21 tháng 8, thông tin về quân số Đức và Romania thương vong tăng lên từng giờ trong khi trên bản đồ của các sĩ quan tác chiến Đức, các mũi tấn công bằng xe tăng của quân đội Liên Xô bắt đầu vượt khỏi ngoại ô phía Nam Iaşi. Johannes Frießner gọi điện cho tướng Otto Wöhler và nhận được hồi đáp rằng Tập đoàn quân 8 cũng đang phải chống trả các trận công kích của Tập đoàn quân 40 (Liên Xô) trên hướng Paşcani. Nhận thấy cánh quân chủ lực của Tập đoàn quân 6 (Đức) đang lâm vào tình thế đe dọa bị hợp vây Johannes Frießner lệnh cho tướng Otto Wöhler phải điều gấp Sư đoàn xe tăng "Đại Romania" do các sĩ quan Đức chỉ huy còn đang "rỗi rãi" ở lực lượng dự bị đến ngay tuyến phòng thủ núi Mare. Ngày 21 tháng 8, Sư đoàn xe tăng này đã tạm thời chặn được đòn đột kích của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 (Liên Xô), kìm chân tập đoàn quân này thêm một ngày một đêm ở chân dãy núi này.

Đến sáng 22 tháng 8, dưới các trận oanh tạc từ trên không và các đòn đột kích liên tục của xe tăng và bộ binh Liên Xô, Sư đoàn xe tăng "Đại Romania" đã bị thiệt hại nặng, liên quân Đức-Romania không còn giữ được tuyến phòng ngự liên tục dọc theo chân núi Mare và buộc phải tháo lui. Trong ngày 22 tháng 8, Tập đoàn quân xe tăng 6 dẫn theo các quân đoàn bộ binh cánh trái của Tập đoàn quân 27 và cánh phải của Tập đoàn quân 52 truy kích dọc theo các con sông Prut và Seret. Cũng trong buổi sáng 22 tháng 8, Tập đoàn quân cận vệ 4 bắt đầu phát động tấn công từ Petreşti vào Tây Bắc Chişinău, đánh chiếm thị trấn Nisporeny và phối hợp với đòn tấn công của Tập đoàn quân xung kích 5 từ Dubosary (Dabasari) đánh vào Đông Bắc Chişinău, bắt đầu chia cắt tuyến phòng thủ của quân Đức xung quanh thành phố. Đến cuối ngày 22 tháng 8, chủ lực của Phương diện quân Ukraina 2 đã thọc sâu vào tuyến phòng ngự của liên quân Đức - Romania được hơn 60 km và mở rộng chính diện đột phá lên đến 120 km. Quân đội Liên Xô đã tiến ra tuyến có thể trực tiếp bao vây Tập đoàn quân 6 (Đức) trên các tuyến sông Prut, Vaslui và Seret.

Ngày 23 tháng 8, các trận đánh ác liệt tiếp tục diễn ra tại một vòng cung lớn từ Vaslui qua Huşi đến Loevo (Leova), đặc biệt là các bến vượt qua sông Prut. Tướng Johannes Frießner cố gắng kéo quân sang phía Tây để chạy đến Transilvania. Tuy nhiên, 10 sư đoàn Đức và Romania đã bị vây ở phía Đông Huşi. Vì phía sau mặt trận quân Đức hầu như không còn bộ binh dự trữ nên tướng Johannes Frießner tung hơn 50 xe tăng của Sư đoàn xe tăng 20 phối hợp với không quân Đức để phá vây. Do vòng vây của quân đội Liên Xô chưa khép chặt nên một bộ phận quân Đức đang bị vây tại khu vực tam giác Katu-Morgi - Leusheny - Kotvskoye đã thoát sang bờ Tây sông Prust và chạy về tuyến sông Seret. Một số nơi, các nhóm quân Đức rút lui đã đánh vào sau lưng các chi đội phái đi trước của Tập đoàn quân xe tăng 6 và Tập đoàn quân 27.

Ngày 26 tháng 8, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliev sau hai ngày đêm liền hành quân liên tục bằng tàu hỏa đã đổ quân xuống nhà ga Paşcani và bước vào chiến đấu ngay mà không cần chờ tập hợp đủ lực lượng. Có kỵ binh cơ giới hỗ trợ, tốc độ tấn công của Tập đoàn quân cận vệ 7 tăng lên đáng kể. Ngày 27 tháng 8, Tập đoàn quân cận vệ 7, Quân đoàn xe tăng 23 và Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliyev vượt sông Seret tại Bakau. Số quân Đức thoát khỏi "cái nồi hầm" ở phía Đông Huşi với quân số khoảng 3 sư đoàn lại một lần nữa lại lọt vào vòng vây của Tập đoàn quân cận vệ 7 và Quân đoàn xe tăng 23 ở phía Đông Onesti và bị đánh tan tại đây. Trong khi Tập đoàn quân 52 và Quân đoàn xe tăng 18 phối hợp với cánh phải của Phương diện quân Ukraina 3 thanh toán Tập đoàn quân 6 (Đức) tại khu tam giác Katu-Morgi (???) - Leusheny - Kotvskoye (???) thì Tập đoàn quân cận vệ 4 đã điều Quân đoàn bộ binh 78 đến tuyến sông Seret để phối hợp tiêu diệt tàn quân Đức và Romania tại đây..

Tình hình khẩn cấp buộc Phương diện quân Ukraina 2 phải sử dụng Quân đoàn xe tăng 23, Quân đoàn cơ giới cận vệ 5 và ba sư đoàn bộ binh của Tập đoàn quân 27 để mở hướng tấn công vào Ploieşti trước khi đánh chiếm Bucharest. Ngày 28 tháng 8, cánh quân xung kích Liên Xô bắt đầu tấn công các sư đoàn Dức xung quanh Ploieşti. Ngày 29 tháng 7, đến lượt Sư đoàn bộ binh 18 Romania quay súng chống lại quân Đức và hỗ trợ cho cuộc tấn công. Không thể chống lại của đột kích của xe tăng Liên Xô cũng như các đòn phản kích của quân du kích và Quân đoàn bộ binh 5 Romania từ trong thành phố đánh ra, ngày 30 tháng 8, tướng Johannes Frießner buộc phải rút quân khỏi vùng phụ cận Ploieşti và theo đường sắt chạy về Brasov. Khi Quân đoàn xe tăng 23 cơ động từ cao nguyên Bracha xuống Ploieşti thì khu công nghiệp dầu mỏ đã được giải phóng gần như nguyên vẹn. Tướng A. O. Akhmanov lập tức chuyển chiến thuật sang tấn công truy kích. Trong ba ngày tiếp theo, các sư đoàn bộ binh 79 và 376 (Đức) đã bị Quân đoàn xe tăng 23 bám đuổi và đánh thiệt hại nặng suốt dọc đường từ Ploieşti đến Ofytul-Georgye (Sfantu gheorghe).

Tướng F. I. Tolbukhin có 4 tập đoàn quân và 2 quân đoàn cơ giới để thực thi nhiệm vụ. Các tập đoàn quân 37, xung kích 5 và Quân đoàn cơ giới 7 có nhiệm vụ phối hợp với cánh trái của Phương diện quân Ukraina 2 bao vây và tiêu diệt Tập đoàn quân 6 (Đức) ở khu vực Chişinău. Tập đoàn quân 57 và Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 có nhiệm vụ đột kích sâu xuống Galats (Galati), nơi đóng sở chỉ huy của Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina. Tập đoàn quân 46 có nhiệm vụ phối hợp với Hải quân đánh bộ của Hạm đội Biển Đen bao vây và tiêu diệt Tập đoàn quân 3 (Romania) và các đơn vị Đức tại khu vực ven biển (thường được gọi là Cụm quân Akkerman). Trong đó, mũi tấn công của Tập đoàn quân 37 có vai trò rất quan trọng. Nó phải phối hợp chặt hẽ với mũi tấn công của Tập đoàn quân 52 (Phương diện quân Ukraina 2) để bao vây Tập đoàn quân 6 (Đức) ở Chişinău. Mũi tấn công của Tập đoàn quân 57 có một tầm quan trọng khác, nó chia cắt Tập đoàn quân 3 (Romania) với tất cả các lực lượng còn lại của Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina (Đức). Vì có ít binh lực hơn nên F. I. Tolbukhin chỉ dành ra Quân đoàn bộ binh cận vệ 6 làm lực lượng dự bị.

Sáng ngày 20 tháng 8, trong khi tại Galats, Bộ tham mưu của tướng Johannes Frießner còn đang xem xét lại kế hoạch rút lui của Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina (Đức) thì tướng F. I. Tolbukhin đã có mặt tại đài chỉ huy ở bờ sông Dniestr đối diện với thành phố Beldery để kiểm tra lần cuối cùng công việc chuẩn bị. Đồng hồ chỉ đúng 8 giờ, hơn 5 nghìn khẩu pháo và súng cối của Phương diện quân Ukraina 3 đã trút đạn sang tuyến phòng thủ của quân Đức và Romania ở bên kia sông Dniestr. Pháo hạm và các dàn Katyusha từ các chiến hạm và tàu tuần tra của Hạm đội Biển Đen cũng bắn phá pháo đài Akkerman. Tập đoàn quân không quân 17 và Không quân của hạm đội Biển Đen cũng thực hiện hơn 400 phi vụ đánh vào các cứ điểm phòng thủ của quân Đức và Romania từ sông Dniestr đến sông Prut và cửa sông Danub. Theo tính toán mật độ đạn của Phòng tham mưu pháo binh phương diện quân, cứ 100 mét chính diện trên tuyến phòng thủ của quân Đức phải hứng chịu khoảng 15 tấn bom và đạn pháo.

Hauptmann Hans Diebisch, sĩ quan chỉ huy một tiểu đoàn Đức cho biết:

Không quân của Hạm đội Biển Đen (Liên Xô) ném bom cảng Constanta ngày 20 tháng 8 năm 1944

Do xuất phát từ hai căn cứ đầu cầu ở phía Nam Tiraspol nên các tập đoàn quân 37 và 57 không phải vượt sông trong hành tiến. Tại Quân đoàn bộ binh 66 thuộc Tập đoàn quân 37, chỉ huy Sư đoàn bộ binh 333, thiếu tướng A. I. Danilov quyết định không dành một đơn vị nào ở thê đội dự bị mà tung hết ba trung đoàn của mình vào trận đánh. Sư đoàn bộ binh cận vệ 61 bên cánh phải họ thì tiến công theo đội hình chuẩn với 2 trung đoàn tham gia tiến công và 1 trung đoàn dự bị. Vấp phải các hỏa điểm mạnh của quân Đức còn sót lại tại cứ điểm Plopschtubej (Plop-Știubei), Trung đoàn bộ binh cận vệ 188 đã phải dừng lại. Trong khi đó, Trung đoàn bộ binh 189 bên cạnh Sư đoàn 333 vẫn tấn công đều đặn. Trước tình hình đó, tư lệnh Sư đoàn bộ binh cận vệ 6 đưa Trung đoàn bộ binh cận vệ 187 vào mặt trận để tăng sức đột phá. Đến chiều tối ngày 20 tháng 8, Sư đoàn bộ binh 244 tiếp tục được tung vào trận địa để đột phá qua tuyến phòng thủ thứ hai của liên quân Đức - Romania. Trong ngày đầu tiên của chiến dịch, các quân đoàn Liên Xô đều vượt qua được từ 7 đến 9 km. Riêng Quân đoàn bộ binh 66 tiến lên được 15 km. Các sư đoàn bộ binh 15, 306 (Đức) bị thiệt hại nặng. Sư đoàn bộ binh sơn chiến 4 và Sư đoàn bộ binh 21 (Romania) bị tiêu diệt hoàn toàn.

Ngày 21 tháng 8, quân Đức bắt đầu có phản ứng. Tướng Johannes Frießner điều Sư đoàn xe tăng 13 và các sư đoàn bộ binh 106, 153 và 258 (Đức) mở cuộc phản kích để giữ con đường sắt từ Beldery đi Romanovka, tạm thời chặn được Tập đoàn quân 37 ở khu vực Opaci. Sáng 22 tháng 8, Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 có 135 xe tăng và 56 pháo tự hành được điều đến khu vực để chặn kích. Tập đoàn quân không quân 17 của tướng V. A. Sudet được lệnh dành toàn bộ Quân đoàn không quân 9 (2 sư đoàn cường kích, 1 sư đoàn tiêm kích) để tấn công cánh quân phản kích của Đức. Các máy bay cường kích IL-2 một lần nữa lại trở thành những "thần chết đen" đối với các xe tăng Đức. Chiều 22 tháng 8, cuộc phản kích của 4 sư đoàn Đức bị đánh lui về Gura-Gandena (Gura Galbenei). Quân Đức bỏ lại trên bãi chiến trường hơn 100 xác xe tăng và pháo tự hành bị phá hủy và hàng nghìn xác lính bộ binh.

Ngày 23 tháng 8, sau năm lần bảy lượt đề đạt ý kiến, và chỉ khi nhận được những tin tức rất xấu từ mặt trận Romania báo về từ nhiều nguồn, tướng Johannes Frießner mới được Hitler cấp quyền rút các lực lượng Đức và Romania khỏi tuyến phòng thủ. Cũng như tại tuyến sông Dniepr trước đây, quyết định đó là quá muộn. Ngày hôm đó, các Tập đoàn quân cận vệ 4 (Phương diện quân Ukraina 2) và xung kích 5 (Phương diện quân Ukraina 3) đã áp sát phía Bắc và phía Nam Chişinău sau khi đánh bại cuộc phản kích của liên quân Đức-Romania, Tập đoàn quân 37 (Liên Xô) đã chặn hết các con đường rút lui của quân Đức xuống phía Nam. Không những thế, đòn tấn công của Tập đoàn quân 46 (Liên Xô) còn chia cắt Tập đoàn quân 6 (Đức) và Tập đoàn quân 3 (Romania) và một bộ phận lớn Tập đoàn quân 3 Romania đã bị dồn ra biển. Họ đã để mất pháo đài Akkerman một cách nhanh chóng và đang bị quân đội Liên Xô tiêu diệt hoặc làm tan rã tại các bãi lầy ở vùng cửa sông Kogilnik. Đến ngày 23 tháng 8, Tập đoàn quân 3 Romania đã không còn tồn tại.

Đòn tấn công của Tập đoàn quân 57 hầu như không gặp phải sức chống cự đáng kể của quân đội Đức Quốc xã. Ngày 21 tháng 8, tướng Johannes Frießner đã cho rút bộ tham mưu của Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina khỏi thành phố Galats bằng máy bay về Debresen (Hungary). Ngày 23 tháng 8, Quân đoàn bộ binh 64 chiếm Tarutino. Ngày 24 tháng 8, Quân đoàn bộ binh 68 đánh bật cuộc phản kích của quân Đức ở phía đông Kagul (Cahul). Tàn quân Đức của Sư đoàn bộ binh 9 bỏ chạy sang phía Tây lại rơi vào đúng tuyến tấn công của Tập đoàn quân 27 đã nhanh chóng bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh. Ngày 25 tháng 8, Quân đoàn bộ binh 9 (Tập đoàn quân 57) đánh chiếm pháo đài Izmail. Ngày 26 tháng 8, Tập đoàn quân 57 tổ chức vượt sông Danub đánh chiếm Tulcha (Tulcea). Ngày 27 tháng 8, đến lượt thị trấn Babadag được giải phóng. Ngày 29 tháng 8, Quân đoàn bộ binh 9 và Quân đoàn bộ binh 64 phối hợp với Hải quân đánh bộ của Hạm đội Biển Đen và Sư đoàn đổ bộ đường không 10 đánh chiếm cảng Constanta. Cùng ngày, Quân đoàn bộ binh 68 đánh chiếm Chernavoda (Cernavoda) trên bờ sông Danub.

Sau khi tiêu diệt cụm quân Đức và Romania tại phía Nam Akkerman, Tập đoàn quân 46 tiếp tục cơ động xuống phía Đông Bucharest theo bờ tả ngạn sông Danub. Ngày 27 tháng 8, Quân đoàn bộ binh 37 đánh chiếm thành phố Galats. Ngày 28 tháng 8, đến lượt thành phố Braila rơi vào tay quân đội Liên Xô. Ngày 29 tháng 7, Quân đoàn bộ binh 34 đánh chiếm thị trấn Slobozie (Slobozia) trên sông Jalomişa và chỉ còn cách biên giới Romania - Bulgaria chưa đầy 50 km.

Hướng Chişinău

Binh sĩ Liên Xô và binh sĩ Romania bắt tay nhau tại mặt trận. Từ ngày 31 tháng 8 năm 1944, họ đã cùng chung một chiến tuyến

Đến cuối ngày thứ ba của chiến dịch, Phương diện quân Ukraina 3 đã thọc rất sâu vào hậu cứ của Tập đoàn quân 6 (Đức). Trong tay tướng Johannes Frießner chỉ còn lại Sư đoàn xe tăng "Đại Romania" nhưng nó lại đang bị Tập đoàn quân xe tăng 6 (Liên Xô) tiêu hao sau hai ngày chiến đấu liên tục dưới chân núi Mare để giữ con đường rút lui sang phía Tây của Cụm quân Đức - Romania tại Chişinău. Trên hướng Đông Nam Chişinău, Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 của Phương diện quân Ukraina 3 sau khi hỗ trợ cho Tập đoàn quân 46 đánh tan Tập đoàn quân 3 Romania đã ngoặt sang phía Tây, hợp lực cùng Quân đoàn cơ giới 7 khép vòng vây ở phía Nam Chişinău tại Leovo. Tập đoàn quân 6 (Đức) đứng trước nguy cơ bị bao vây tiêu diệt. Thượng sĩ nhất Franz-Josef Strauss của Trung đoàn xe tăng 66 thuộc Sư đoàn xe tăng 13, (về sau trở thành một chính trị gia nổi tiếng) đã nhận xét rằng sư đoàn của ông không còn tồn tại dưới tư cách là một đơn vị chiến thuật có tổ chức kể từ ngày thứ ba của cuộc tấn công. Ông nói: "Quân địch ở khắp nơi."

Mazulenko đã nhận xét như sau về đà tiến quân của Quân đoàn bộ binh 66 Liên Xô, đơn vị đầu tiên khép vòng vây ở phía Nam cụm quân Đức tại Chişinău trên khu vực Guna Galdena:

Từ ngày 23 tháng 8, các gọng kìm của Tập đoàn quân 52 và Quân đoàn xe tăng 18 (từ phía Tây), Tập đoàn quân 37 và Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 (từ phía Đông), Tập đoàn quân cận vệ 4 (từ phía Tây Bắc), Tập đoàn quân xung kích 5 (từ phía Đông Bắc) và Quân đoàn cơ giới 7 từ phía Nam đã ngày càng khép lại. Tập đoàn quân 6 (Đức) chỉ còn duy nhất một "cửa thoát hiểm" ở Tây Nam Chişinău qua Leusheny và Huşi. Tuy nhiên, ngay từ ngày 22 tháng 8, không cần chờ lệnh của tướng Johannes Frießner, tướng Maximilian Fretter-Pico đã cho Tập đoàn quân 6 rút lui sang phía Tây Nam theo con đường bộ từ Chişinău đi Huşi, dự kiến sau đó sẽ cắt phương vị vào chân núi phía Đông dãy Carpath rồi rút sang Hungary. Tướng Maximilian Fretter-Pico cũng ra lệnh cho các đơn vị mang theo tối đa số lượng vũ khí nặng có trong tay để chiến đấu trên đường đi. Thanh minh cho hành động rút quân được giới chức Romania miêu tả là "cuộc chạy trốn khỏi chiến trường" của Tập đoàn quân 6 (Đức), tướng Johannes Frießner viết:

Ngày 24 tháng 8, Tập đoàn quân xung kích 5 (Liên Xô) giải phóng Chişinău và Tập đoàn quân cận vệ 4 tiếp tục truy kích Tập đoàn quân 6 (Đức) đang rút lui. Chiều 24 tháng 8, đại bộ phận Tập đoàn quân 6 (Đức) đã bị vây tại khu vực phía Đông Huşi. Tuy nhiên, do vòng vây phía trong không được bảo đảm liên tục nên cụm quân Đức bị vây lên đến 18 sư đoàn đã trở thành mối đe dọa phía sau lưng chủ lực các tập đoàn quân Liên Xô đang lao nhanh về phía Nam. Ngày 25 tháng 8, cụm quân lớn nhất của quân Đức gồm khoảng 35.000 người bị kẹt lại tại các bến vượt trên sông Prut bị tiêu diệt hoặc hạ vũ khí đầu hàng. Tuy nhiên, khoảng 10.000 quân Đức đã chạy thoát sang bờ Tây sông Prut. Như một cơn bão lớn bị tan thành nhiều cơn lốc nhỏ, quân Đức phân tán thành từng tốp, từng nhóm, từng cụm, tổ chức công kích ở khắp mọi hướng để có thể thoát khỏi vòng vây. Từ ngày 25 đến ngày 30 tháng 8 năm 1944, Tập đoàn quân cận vệ 4 (Liên Xô) cũng phải xé lẻ thành các sư đoàn để truy đuổi, tiêu diệt và bắt làm tù binh các nhóm quân Đức đang tháo chạy tứ tán khắp mọi nơi ở giữa sông Prut và dãy núi

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Khởi nghĩa tháng 8 năm 1944 tại Romania** hay còn gọi là cuộc **Đảo chính tháng Tám** là một sự kiện chính trị-quân sự xảy ra ở Rumani vào cuối tháng 8 năm 1944. Trong
**Chiến dịch tấn công Beograd** ( / Beogradska operacija; , ) là hoạt động quân sự lớn nhất tại Nam Tư trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng thời là một trong các chiến
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Chiến dịch tấn công Bucharest-Arad** (30 tháng 8 - 3 tháng 10 năm 1944), còn gọi là **Chiến dịch Rumani**, là một chiến dịch quân sự do Hồng quân Liên Xô và quân đội Rumani
**Chiến dịch giải phóng Bulgaria** (5 tháng 9 - 15 tháng 9 năm 1944) là một chiến dịch quân sự do Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của nguyên soái
**Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani** hay _Chiến dịch tấn công Uman-Botoshany_ Chiến dịch này có quy mô lớn về binh lực của hai bên Liên Xô và Đức tại giai đoạn hai của các hoạt
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**Chiến dịch Debrecen** (6 tháng 10 - 28 tháng 10 năm 1944) là một chiến dịch tấn công do Hồng quân Liên Xô và quân đội România tổ chức nhằm tấn công quân đội Đức
**Chiến dịch tấn công Odessa** (26 tháng 3 - 14 tháng 4 năm 1944) là một trong các chiến dịch quân sự cuối cùng giữa Quân đội Liên Xô và Quân đội Đức Quốc xã
**Mikhail Stepanovich Shumilov** (; 17 tháng 11 năm 1895 - 28 tháng 6 năm 1975) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Ông từng là chỉ huy
**Sergey Georgyevich Gorshkov** (; 26 tháng 2 năm 1910 - 13 tháng 5 năm 1988) là một Đô đốc Hải quân Liên Xô, từng hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
**Trận vượt sông Dniestr** (21-22 tháng 8 năm 1944) hay còn gọi là **trận đổ bộ Akkerman** là một trận chiến nằm trong chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi-Chişinău thuộc Chiến tranh Xô-Đức. Nó
**Phương diện quân Ukraina 3** (tiếng Nga: _3-й Украинский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử Phương diện quân Ukraina
**Phương diện quân Ukraina 2** (tiếng Nga: _2-й Украинский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai, hoạt động trên hướng Tây Nam Ukraina,
**Nikolay Erastovich Berzarin** (tiếng Nga: _Никола́й Эра́стович Берза́рин_; 1 tháng 4 năm 1904 - 16 tháng 6 năm 1945) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô thời Thế chiến thứ hai. Ông là tư
**Ivan Zakharovich Susaykov** (12 tháng 9 (lịch cũ 30 tháng 8) năm 1903, tại làng Davydkovo, tỉnh Smolensk - 12 tháng 7 năm 1962, Moskva) là một sĩ quan chính trị cao cấp trong quân
**Gennady Ivanovich Obaturov** (; 1915-1996) là một Đại tướng Liên Xô. Ông là Cố vấn trưởng và Trưởng phái đoàn viện trợ quân sự đặc biệt của Liên Xô cho Việt Nam trong Chiến tranh
**Trận đổ bộ Zhebriyany (???) -Vilkovo** (Vylkove) (23-24 tháng 8 năm 1944) là một trận đánh đổ bộ do Hồng quân Liên Xô thực hiện nhằm tấn công vào quân đội Đức Quốc xã, diễn