✨Buôn Akõ Dhông
Buôn Akŏ Dhông tiếng Ê Đê, “Akŏ” có nghĩa là đầu nguồn, “Dhông” là "triền dốc". Akŏ Dhông là "đầu dốc" đặt tên như vậy vì buôn này nằm sát dốc của đầu nguồn suối Ea Nuôl. Akô Dhông được xem là "buôn giàu mạnh nhất Tây Nguyên", "buôn đẹp nhất thành phố Buôn Ma Thuột" hay "buôn duy nhất hiện giờ còn giữ được dáng dấp, nét độc đáo của một buôn làng người Êđê", tuy nhiên không gian kiến trúc cũ đang dần dần bị phá vỡ.
Tên gọi
Buôn Akŏ Dhông có nhiều tên gọi khác như:
- buôn Akõ Thôn
- buôn Cô Thôn
- Buôn Akô D’hông
- Buôn Nhà Ngói
- Ƀuôn Akŏ Dhông
Vị trí địa lý
Buôn Akŏ Dhông (Phường Tân Lợi,Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) từ ngã sáu Ban Mê đi theo đường Phan Chu Trinh khoảng 2 km đến đường Trần Nhật Duật, rẽ trái khoảng 0,5 km là tới Buôn.
Buôn Akŏ Dhông khi được lập lên là vùng đất bắt nguồn của sáu con suối là: Ea Giang, Ea Dung, Ea Ding, Ea Pủi, Thun M’nung, và đặc biệt là Ea Nuôl, con suối lớn nhất ở Buôn Ma Thuột. Nhưng hiện giờ nguồn nước đã bị ô nhiễm, vào mùa khô nguồn nước không còn nữa hiện giờ chỉ còn trong trí nhớ của người dân nơi đây.
Đặc điểm về dân cư và du lịch
thumb|279x279px|nhà sàn Yang SinỞ đây ngoài những người dân sinh sống từ thời lập buôn, còn có những người nơi khác đến đây để lập nghiệp như mở dịch vụ du lịch, nhà hàng. Đa số người dân ở đây là dân tộc Ê Đê, M'Nông.
Con đường của buôn làng rất sạch sẽ, khang trang phía trước cổng mỗi nhà là khu vườn với nhiều cây xanh. Nhà nào cũng làm nhà sàn, khi xây dựng nhà xây thì họ không hề phá bỏ nhà dài mà xây nhà ngay phía sau nhà dài. Những ngôi nhà dài đều được cố ý xây dựng xếp dọc nhau 2 bên đường chính của làng.
Cửa chính nhà dài luôn có một sân sàn rộng gọi là sân khách. Một vài ngôi nhà dài thì vẫn còn có hai cầu thang lên xuống được làm từ gỗ nguyên cây, một dành cho khách và một dành cho người nhà.
Nhà dài được dựng bằng các vật liệu như gỗ, tre, nứa; mái lợp từ cỏ tranh dày, vách và sàn ghép bằng phên thân cây nứa nhưng vì các vật liệu này ngày một khan hiếm, và thời gian sử dụng ngắn,dễ bị mục nát cũng như dễ bắt lửa nên nhà dài ở đây hiện giờ mái nhà là ngói còn vách và sàn thì từ ván gỗ, cầu thang thi xây bê tông.
Đa số người dân ở đây đều theo đạo Thiên Chúa giáo, họ coi lòng tin từ cái tâm nên một số lễ cúng bái như cúng cơm, cúng bến nước những tập tục mà người dân nơi đây cho rằng là sự lãng phí, đã dần bỏ hết chỉ giữ lại những gì được coi là bản sắc văn hóa dân tộc thì vẫn còn được giữ lại như văn hóa chào khách mỗi khi có khách quý đến như cột kéo rượu cần mời rượu khách, chào đón bằng một hồi cồng chiêng. Ngoài ra vào ngày Giáng sinh, đón năm mới tiếng cồng chiêng cũng được vang lên.
Hiện nay có khoảng 32 nóc nhà sàn, vẫn tự bảo quản nhạc cụ truyền thống của mình như hiện nay buôn còn lưu trữ 30 bộ cồng chiêng, trên 50 khung dệt truyền thống cũng như nhiều loại ché, các bức tượng, đồ chạm khắc của cha ông để lại, ống sáo, sáo môi, đàn lồ ô. trống..vvv.. Nhà nào cũng biết làm rượu cần, đan lát và làm được một số nhạc cụ của dân tộc mình. Mỗi gia đình đều có một ngôi nhà dài truyền thống kiểu Ê Đê dựng phía trước căn biệt thự hoành tráng kiểu người Kinh.
Trẻ em trong buôn đều được đến trường, hầu hết đều học hết lớp 12, một số học đại học. nhiều gia đình có con em thông thạo tiếng Anh, Pháp.
Một số điểm đến tham quan khi đến buôn Akŏ Thôn: Nhà trưng bày dệt thổ Cẩm, cồng chiềng, nhà sàn, khu sinh thái Akŏ Dhông, Đầu nguồn, Hồ câu bến nước,...
Lịch sử hình thành và phát triển
Từ 1954 đến 1975
Năm 1954 sau hiệp định Genève, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền, từ vĩ tuyết 17 miền Bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Miền Nam là Việt Nam Cộng Hòa.
Khi đó có 5 nữ thiện nguyện người Pháp đến Cao Nguyên truyền giáo và dừng chân lại tại Buôn Ma Thuột.
Đầu năm 1956 một trong số những nữ thiện nguyện đã tìm gặp một người dân bản địa là Y- Bun Sưr đang học ở Lycee Đà Lạt người Mnông Rlăm. Nhờ người này làm người bảo lãnh và trình lên chính quyền của Việt Nam Cộng Hòa tại Buôn Ma Thuột lúc bấy giờ xin một thửa đất 45 mẫu (450000 m²) Việt Nam Cộng Hòa chấp thuận với tính cách hợp đồng 50 năm. Ông Y– Bun Sưr kêu gọi và huy động anh em quen biết ở MĐrăk, đang làm ở trong đồn điền của Người Pháp. Trong đó có Y- Diêm Niê (Ama H’Rin), người Ê Đê từ vùng đất Ma Đrăc (M’Đrắk, Đắk Lắk). Khi đến nơi đây vẫn là nời rừng hoang và nhiều thú rừng, lúc đó chỉ có 10 người làm công.
Ngôi nhà sàn đầu tiên cho những ngươi làm công tá túc ở triền dốc dòng suối Ea Nuôl còn gọi Drai Mlo nằm ở phía giáp với nương rẫy của Buôn Đung sau này là nghĩa địa của Buôn. Đầu tiên khai hoang 6 mẫu để trồng cafe, rồi những năm sau đó tiếp tục mở rộng đất canh tác.
Khoảng những năm 1958 – 1960 xây dựng một ngôi nhà lớn vừa làm nhà kho vừa để cho người làm công ở. Từ đây một buôn làng mới dần được hình thành, Những người ở đây vẫn ăn theo lương tháng. Ngoài ra còn trồng hoa màu để cải thiện kinh tế. Lúc này Ama Hrin đã được mọi người đặc cách làm trưởng buôn (già làng), làm chủ đồn điền.
Từ năm 1962-1964, khi các gia đình tăng lên từ 6 gia đình lên 12 gia đình, bắt đầu xây dựng nhà dài đầu tiên dài khoảng trên 30m lợp mái tranh, vách từ tre nứa.
Năm 1964 Buôn làng chính thức thành lập được gọi là đồn điền Saint Benoit.
Từ 1964 – 1968 Những nhà sàn dài bắt đầu tăng lên, số các gia đình lúc này là 14 gia đình.
Cuối năm 1966 Tòa Khâm Xứ thành lập Giáo phận Ban Mê Thuột để tiếp nhận các cơ sở tôn giáo của người Pháp. Sau khi trao Đan Viện cho Tòa Khâm Xứ, 2 sơ Pháp trở về buôn này sinh sống và truyền giáo cho người Êđê, tiếp tục xây thêm Nhà dài làm chỗ ở cho 2 sơ.
Vào cuối năm 1967, Buôn dựng thêm một nhà sàn, tuy nhiên lúc bấy giờ là thời Chiến tranh Việt Nam nên dân làng đã lợp mái ngói thay vì mái tranh như truyền thống để tránh hỏa hoạn. Năm 1970 đã có 2 nhà dài bị cháy rụi do đạn lạc.
Năm 1968, vì bất đồng ý kiến Ama Hrin không làm trưởng Buôn nữa, lúc này ông Y- Dhiang Êban (Ama Y- Blăp tức “ Aê H’Ben”) làm trưởng Buôn. Ông Ama H’Rin đã vay mượn tiền của Đồn điền để mua đất bên kia suối Ea Nuôl với diện tích 7 mẫu. Bốn năm sau ông Ama H'rin đã hoàn lại được cả gốc lẫn lãi số tiền được cho vay. Cùng lúc này cơ cấu tổ chức thay đổi làm theo hợp tác xã quy mô nhỏ, không còn là đồn điền. Đời sống kinh tế của buôn từ đây được khá hơn trước với 8 hộ gia đình còn lại. Với tài trí và uy tín của mình Ama H'Rin đã thuyết phục được mọi người đổi tên buôn thành Akŏ Dhông. Hằng năm mỗi hộ gia đình đều gửi tiền vào tài khoản riêng của mỗi gia đình và tài khoản chung cho tập thể buôn làng làm quỹ tích lũy và vốn để phát triển buôn làng.
Từ năm 1970-1975 làm thêm 5 nhà sàn mới. Năm 1972 có sự thay đổi trưởng Buôn mới là ông Y-Sưn Niê (Ama H’Yâo “Aê Y-Dum”) làm đến 1975.
Từ năm 1975
Năm 1975, Việt Nam hoàn toàn giải phóng và tất cả người ngoại quốc đều trở về nước của mình cũng như Ngân hàng ngoại quốc, vì thế số tiền gửi ở ngân hàng của dân buôn Akŏ Dhông đều mất trắng, rơi vào tình trạng khó khăn. Trước khi 2 sơ Pháp về nước, Ama H’Rin đã tiếp tục được chọn làm trưởng buôn.