✨Brachychiton rupestris
Brachychiton rupestris là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ, ở Queensland, Úc. Theo phát hiện và mô tả của Thomas Mitchell và John Lindley, sở dĩ cây thường có tên là Queensland bottle tree (cây chai Queensland) là vì cây có chỗ phình ra ở thân. Cây trưởng thành cao 10 đến 25 mét (33 đến 82 ft). Cây rụng lá theo mùa, từ tháng 9 đến tháng 12. Lá cây đơn giản và được xẻ làm nhiều phần, có 1 hoặc nhiều phiến lá dài 11 cm (4 inch) và rộng 2 cm (0,8 inch). Hoa có màu vằng kem xuất hiện từ tháng 9 đến tháng 12, dọc theo quả đại bằng gỗ hình thuyền. Quả chín vào từ tháng 11 đến tháng 5. chưa có phân loài nào được phát hiện và công nhận.
Là cây mọng nước, hay rụng lá khi khô hạn, Brachychiton rupestris thích ứng với việc trồng trọt canh tác và dễ thích nghi với các loại đất khác nhau và nhiệt độ. Đây là 1 loài quan trọng trong rừng bán rụng lá ở vành đai Brigalow, Queensland, Úc đứng trước nguy cơ mất rừng. Cây còn sót lại bị người nông dân đưa đến nền đất trống tạo bóng mát và làm thức ăn cho gia súc.
Mô tả
Brachychiton rupestris là cây mọng nước. Khi trưởng thành cây cao 10 đến 20 m (33 đến 36 ft), rất hiếm cây cao đến 25 m (82 ft) Thân cây dày, cao 5 đến 15 m (16 đến 49 ft), với biến số đươnggf kính (DBH) là 1 đến 3,5 m (3,3–11,5 ft). Vỏ cây màu xám đen có nhiều vết nứt dạng lưới tổ ong trên bề mặt vài vết nứt sâu. khi cây còn non, nhành cây có màu xanh sáng hoặc xám. Lá mọc dọc theo cuống, giống như các cây cùng thuộc chi Brachychiton. Lá mỗi cây có hình dạng khác nhau, được xẻ làm nhiều phần, hẹp hoặc có hình elip. xuất hiện từ tháng 9 đến tháng 11. Hoa mọc từ chồi nách ở cuối cành. Mỗi chùm hoa hình chùy có 10 đến 30 bông và dài 3 đến 8 cm (1,2 đến 3,1 inch). Mỗi bông hoa dài 0,5 đến 1 cm (0,2 đến 0,4 inch) và rộng 1,3 đến 1,8 cm (0,5 đến 0,7 inch). Chiều dài các thùy của bao hoa hơn một nửa so với đường kính bao hoa. Trong ấn phẩm tương tự, nhà thực vật học người Anh tên John Lindley lần đầu tiên chính thức mô tả loài. Lindley đã đặt loài này trong chi Delabechea với loài Delabechea rupestris là đại diện. Mitchell đã lựa chọn tên chi Delabechea để tôn vinh giám đốc Sở Địa chất Anh - Henry De la Beche, còn từ rupestris trong tiếng Latin là 1 tính ngữ, nghĩa là sống trong đá. Từ rupestris đã đề cập đến môi trường sống trên đỉnh đồi đá của mẫu vật mà Mitchell quan sát. Năm 1862, nhà thực vật học ở Victoria tên Ferdinand von Mueller đã đổi tên nó thành Brachychiton delabechei để kết hợp chi Delabechea vào Brachychiton. Tuy nhiên, Von Mueller vẫn giữ nguyên quan điểm của ông ràng coi Brachychiton như một chi riêng biệt. Năm 1893, nhà thực vật học người Đức tên Karl Moritz Schumann đã đổi danh pháp hai phần của loài là Brachychiton rupestris và được Achille Terraciano, quản lý vườn sinh thái Orto Botanico di Palermo, chấp nhận. Tên đó vẫn được duy trì cho đến ngày nay.
Cái tên Brachychiton có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp brachys nghĩa là ngắn, và chiton nghĩa là vỏ (do vỏ hạt). Trong nhiều năm, tên chi bị hiểu lầm và cây bị coi là cây trung tính do sự sửa đổi không chính xác của mô tả ứng với từng tên riêng biệt. Cuối cùng danh pháp Brachychiton rupestre đã được công nhận và do 'biến thể chính tả' (một hiện tượng khi đặt tên loài trong sinh học) đã trở thành Brachychiton rupestris. Tên thông thường còn có 'cây chai lá dẹt' (narrow-leaved bottle tree) hay chỉ đơn giản là 'cây chai'.
Phép lai chéo Brachychiton x turgidulus là phép lai bình thường giữa B. rupestris và B. populneus. Nó được ở biểu hiện rõ nét ở phía đông thị trấn Boonah, Queensland.
Phân bố và môi trường sống
Brachychiton rupestris được phát hiện ở trung tâm Queensland, từ vĩ độ 22° S đến 28° S. Cây phân bố chủ yếu nằm ở vùng đo lượng mưa 500mm (về phía tây). Cây sống nơi có địa hình đồi núi thấp có thổ nhưỡng đất sét, đá phiến sét, đất bazan. Brachychiton rupestris là cây vượt tán, sống cùng tầng với các loài cây khác như Acacia harpophylla, Araucaria cunninghamii, Cadellia pentastylis.
Bảo tồn
Dù Đạo luật bảo tồn thiên nhiên Queensland xếp loài vào loài ít quan tâm, nhưng số lượng cá thể đang giảm dần tại một số nơi. Tại những nơi này, sự sinh trưởng của cây cũng bị cho là bị ảnh hưởng xấu. Loài được bảo tồn ở một số vườn quốc gia như VQG sông Auburn, Benarkin, núi Bunya, hồ Coalstoun, Dipperu, Good Night Scrub, Humboldt, Isla Gorge, và Tregole.