✨Bardo (Ba Lan)

Bardo (Ba Lan)

Bardo () là một thị trấn thuộc quận Ząbkowice Śląskie, Lower Silesian Voivodeship, ở phía tây nam Ba Lan. Đó là trụ sở của khu hành chính (gmina) được gọi là Gmina Bardo.

Bardo nằm trên sông Đông Neisse, chảy ra khỏi Thung lũng Kłodzko về phía Vùng đất thấp Silesian. Nó nằm khoảng về phía tây nam của Ząbkowice ląskie, và phía nam thủ đô khu vực Wrocław. Tính đến năm 2006, thị trấn có dân số 2.860 người.

Thị trấn là một nơi được biết đến rộng rãi của cuộc hành hương và chầu Đức Trinh Nữ Maria.

Lịch sử

Bardo được thành lập vào thế kỷ thứ 10 với tư cách là một nơi phòng thủ trên tuyến đường thương mại thời trung cổ từ Prague qua Sudetes qua Kłodzko đến Wrocław và Gniezno. Khu vực xung quanh đã được dân cư của Tây Slav bộ lạc và Bardo của castellans là các hiệp sĩ Ba Lan. Họ bảo vệ biên giới phía nam của vùng đất Hạ Silesian với vùng đất Kłodzko liền kề ở Bohemia. Vào năm 1096, Công tước Bretislaus II của Bohemia đã chiếm được và tàn phá pháo đài, tuy nhiên đến giữa thế kỷ 12, Bardo lại là một phần của Công tước Silesia của Ba Lan. Từ năm 1278 nó thuộc về Lãnh địa Jawor dưới Piast tước Bolko tôi sự nghiêm ngặt, từ 1321 tới các Lãnh địa Ziebice dưới tước Bolko II. Với Ziębice, Bardo được Vương quốc Bohemia chư hầu vào năm 1336. trái|nhỏ|207x207px| Phố cổ Bardo Nhà nguyện của nó được xây dựng vào thế kỷ thứ 10, và nó được đề cập lần đầu tiên vào năm 1189 khi được các Giám mục của Wrocław cấp cho Hiệp sĩ Cứu tế. Năm 1210, nó được chuyển đến Kinh sĩ tại Tu viện Kamieniec. Năm 1290 các Gord đã mất tầm quan trọng chiến lược của mình và không còn tồn tại như một castellany. Năm 1299, toàn bộ khu vực đã được mua theo đơn đặt hàng của Cistercian và được sở hữu bởi chúng cho đến năm 1810. Hình ảnh của Madonna có từ thế kỷ 13, có lẽ là lâu đời nhất ở Silesia. Nhà thờ hành hương Baroque được dựng lên từ năm 1686 đến 1704.

Sau Chiến tranh Silesian đầu tiên, Bardo cùng với hầu hết Silesia đã bị Phổ sáp nhập vào năm 1742. Nó bị Ba Lan sáp nhập vào cuối Thế chiến II và dân số Đức bị trục xuất, Bardo đã đạt được vị thế của một thị trấn vào đầu thế kỷ 14, nhưng điều này đã bị mất do hậu quả của sự hủy diệt do Thế chiến II gây ra. Nó trở thành trụ sở của một gmina vào năm 1954, và được cấp lại tình trạng thị trấn vào năm 1969.

Các tòa nhà lịch sử vẫn còn tồn tại ở Bardo bao gồm nhà thờ hành hương Baroque với bàn thờ của Michael Willmann và cây cầu đá thế kỷ 15 bắc qua sông Neisse. giữa|nhỏ|500x500px| Cây cầu gothic bắc qua sông Đông Neisse (Nysa Kłodzka)

👁️ 95 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bardo** () là một thị trấn thuộc quận Ząbkowice Śląskie, Lower Silesian Voivodeship, ở phía tây nam Ba Lan. Đó là trụ sở của khu hành chính (gmina) được gọi là Gmina Bardo. Bardo nằm
Các địa điểm dựa trên luật pháp của Đức, bao gồm việc tổ chức và xây dựng một thành phố mới, là hiện tượng đặc trưng và quan trọng nhất trong lịch sử kinh tế
#### The capital * Warszawa (_Warsaw_) #### A * Aleksandrów Kujawski * Aleksandrów Łódzki * Alwernia * Andrychów * Annopol * Augustów #### B ##### Ba-Be * Babimost * Baborów * Baranów Sandomierski * Barcin
**Đại nhạc hội OFF** là một chuỗi lễ hội âm nhạc được tổ chức thường niên từ năm 2006. Cho đến năm 2009, nó được tổ chức tại Công viên Słupna ở Mysłowice, Ba Lan
**Đông Neisse**, còn được biết đến với tên tiếng Ba Lan là **Nysa Kłodzka** (, ), là một con sông ở phía tây nam Ba Lan, một nhánh bên trái của sông Oder, với chiều
nhỏ|250x250px|Trang viên ở Laskówka (2016) **Trang viên ở Laskówka** (tiếng Ba Lan: _Dwór w Laskówce_) là một trong những trang viên lịch sử lâu đời nhất ở Ba Lan, được xây dựng vào năm 1606
Hành Trình Sinh Tử Bất kể chúng ta là ai – ngôi sao nhạc pop, y tá, giáo viên, ông trùm bất động sản, người làm vườn, người theo chủ nghĩa vô thần, CEO, thư
**Đế quốc thực dân Pháp** bao gồm các thuộc địa hải ngoại, xứ bảo hộ và lãnh thổ ủy thác nằm dưới sự cai trị của Pháp từ thế kỷ 16 trở đi. Các nhà
430x430px|thumb|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Cuộc chiến chống [[Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant|ISIS tại trận Mosul; Cảnh sát Anh đứng gác trong Chiến dịch Temperer sau vụ đánh bom Manchester
**Tử thư** (zh. 死書, bo. _bardo thodol_ བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་, nguyên nghĩa là "Giải thoát qua âm thanh trong Trung hữu", en. _liberation through hearing in the Bardo_) là một tàng lục (bo. _gter ma_ གཏེར་མ་), được
Hành Trình Sinh Tử ------------   Bất kể chúng ta là ai – ngôi sao nhạc pop, y tá, giáo viên, ông trùm bất động sản, người làm vườn, người theo chủ nghĩa vô thần,
Hành Trình Sinh Tử ------------   Bất kể chúng ta là ai – ngôi sao nhạc pop, y tá, giáo viên, ông trùm bất động sản, người làm vườn, người theo chủ nghĩa vô thần,
Hành Trình Sinh Tử ------------   Bất kể chúng ta là ai – ngôi sao nhạc pop, y tá, giáo viên, ông trùm bất động sản, người làm vườn, người theo chủ nghĩa vô thần,
Bất kể chúng ta là ai – ngôi sao nhạc pop, y tá, giáo viên, ông trùm bất động sản, người làm vườn, người theo chủ nghĩa vô thần, CEO, thư ký, người quét đường,
Bất kể chúng ta là ai – ngôi sao nhạc pop, y tá, giáo viên, ông trùm bất động sản, người làm vườn, người theo chủ nghĩa vô thần, CEO, thư ký, người quét đường,
Hành Trình Sinh Tử ------------   Bất kể chúng ta là ai – ngôi sao nhạc pop, y tá, giáo viên, ông trùm bất động sản, người làm vườn, người theo chủ nghĩa vô thần,
Hành Trình Sinh Tử ------------   Bất kể chúng ta là ai – ngôi sao nhạc pop, y tá, giáo viên, ông trùm bất động sản, người làm vườn, người theo chủ nghĩa vô thần,
Combo Hành Trình Sinh Tử + Hành Trình Của Linh Hồn   Hành Trình Sinh Tử Bất kể chúng ta là ai – ngôi sao nhạc pop, y tá, giáo viên, ông trùm bất động
Hành Trình Sinh Tử Bất kể chúng ta là ai – ngôi sao nhạc pop, y tá, giáo viên, ông trùm bất động sản, người làm vườn, người theo chủ nghĩa vô thần, CEO, thư
Hành Trình Sinh Tử Bất kể chúng ta là ai – ngôi sao nhạc pop, y tá, giáo viên, ông trùm bất động sản, người làm vườn, người theo chủ nghĩa vô thần, CEO, thư
**Odysseus** (; Tiếng Hy Lạp: , _Odusseus_) hay **Ulysses** (; ), phiên âm tiếng Việt là **Uylixơ** hoặc **Ô-đi-xê**, theo thần thoại Hy Lạp ông là vua của xứ Ithaca và là một anh hùng
**Carthage** (tiếng Phoenicia: 𐤒𐤓𐤕𐤇𐤃𐤔𐤕, __, "Thành phố mới" ; , Karkhēdōn ; ; , _Qarṭāj_) là một trung tâm và thành phố thủ đô cổ của nền Văn minh Carthage, phía đông hồ Tunis, ngày
Phật giáo & Truyền thống Kim Cương thừa Phật giáo như một hệ thống triết học và tâm linh lâu đời, đã đồng hành cùng nhân loại qua hàng thiên niên kỷ, mang lại ánh
Phật giáo & Truyền thống Kim Cương thừa Phật giáo như một hệ thống triết học và tâm linh lâu đời, đã đồng hành cùng nhân loại qua hàng thiên niên kỷ, mang lại ánh
Nhập Môn Kim Cương Thừa - Bản thường - Trọn bộ 2 tập Phật giáo như một hệ thống triết học và tâm linh lâu đời, đã đồng hành cùng nhân loại qua hàng thiên
**Ninh-mã phái** (tiếng Tây Tạng: _Nyingmapa_/རྙིང་མ་བ་; tiếng Trung Quốc: 寧瑪派) cũng được gọi là **Cựu phái** hoặc **Cổ mật** vì được sáng lập từ lần đầu Phật giáo truyền qua Tây Tạng, hoặc **Hồng giáo**
Phật giáo như một hệ thống triết học và tâm linh lâu đời, đã đồng hành cùng nhân loại qua hàng thiên niên kỷ, mang lại ánh sáng của giác ngộ, sự an lạc nội tâm và con đường vượt thoát khổ đau. Trong ba nhánh lớn của Phật giáo, Kim Cương thừa (hay còn gọi là Phật giáo Tây Tạng) tỏa sáng như một con đường tinh tế, mạnh mẽ và độc đáo, mang đến những phương pháp tu tập thiện xảo, giúp hành giả đạt được giác ngộ viên mãn ngay trong một đời. Giới thiệu về Kim Cương thừa Giáo pháp của Đức Phật được triển khai qua 84.000 pháp môn, đáp ứng sự đa dạng về căn cơ và tâm tính của chúng sinh. Thế nên, trước khi bước vào thực hành bất kỳ pháp môn nào, hành giả cần hiểu rõ bản chất con đường, phương pháp thực hành và giá trị cốt lõi mà pháp môn đó truyền tải. Đặc biệt, Kim Cương thừa được xem là con đường thiện xảo và nhanh chóng nhất để chứng đạt giác ngộ, nổi bật với những phương pháp thực hành đặc biệt về thiền, trì tụng minh chú, quán đỉnh và các nghi lễ phong phú khác. Bộ sách “Nhập Môn Kim Cương Thừa” của tác giả John Powers chính là chiếc chìa khóa giúp độc giả khám phá truyền thống đặc biệt này. Tại đây, trí tuệ và từ bi hòa quyện để tạo nên những phương pháp tu tập mang tính thực tiễn, mang lại lợi ích vô lượng cho tất cả chúng sinh. Kim Cương thừa: Một di sản tâm linh vượt thời gian Kim Cương thừa không chỉ đơn thuần là một truyền thống tâm linh mà còn là một di sản văn hóa quý báu của nhân loại. Dẫu phải đối mặt với nhiều biến động lịch sử, đặc biệt là sự kiện các vị lama Tây Tạng buộc phải rời quê hương vào thế kỷ 20, truyền thống này vẫn vượt qua mọi ranh giới địa lý để lan tỏa đến các trung tâm Phật giáo và học thuật trên toàn thế giới. Sự lan tỏa này đã giúp Kim Cương thừa trở nên gần gũi hơn với những ai mong muốn khám phá và thực hành. Điểm đặc biệt của Kim Cương thừa là nhấn mạnh khả năng đạt giác ngộ ngay trong đời này, thông qua hệ thống học thuật và các phương pháp tu tập thâm sâu, dưới sự hướng dẫn của các bậc thầy giác ngộ. Phân tích bộ sách “Nhập Môn Kim Cương Thừa” Tác phẩm này được chia thành bốn phần chính, dẫn dắt độc giả khám phá những chiều sâu tâm linh của truyền thống Kim Cương thừa: Phần 1: Nền tảng và giáo lý Phật giáo Phần này giới thiệu khái quát về cuộc đời Đức Phật, các giáo lý nền tảng của Phật giáo và sự phân biệt giữa ba nhánh chính: Tiểu thừa, Đại thừa và Kim Cương thừa. Tác giả làm nổi bật vai trò của Kim Cương thừa như đỉnh cao của hành trình tâm linh, với các nội dung như: Nguyên lý Tứ Diệu Đế – nền tảng của đạo Phật. Con đường Bát Chánh Đạo và cách áp dụng vào đời sống hàng ngày. Khái niệm Tánh Không (Shunyata), cốt lõi trong giáo lý Đại thừa và Kim Cương thừa. Ngoài ra, phần này còn nhấn mạnh cách các phương pháp thực hành thiền định truyền thống (như shamatha và vipassana) được nâng lên một tầm cao mới trong Kim Cương thừa, dành cho những hành giả có căn cơ mạnh mẽ. Phần 2: Lịch sử, văn hóa và đời sống Phật giáo Tây Tạng John Powers dựng nên một bức tranh toàn diện về lịch sử truyền bá Phật giáo vào Tây Tạng, từ thời vua Songtsen Gampo thế kỷ 7 đến sự phát triển của các dòng truyền thừa chính. Phần này cũng đề cập đến những nghi lễ quan trọng, các lễ hội lớn (như lễ Monlam Chenmo), và vai trò của các đạo sư trong đời sống tâm linh Tây Tạng. Sự kiện Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và cộng đồng Tây Tạng lưu vong được trình bày như một biểu tượng của sự kiên cường và khả năng thích nghi của Kim Cương thừa trước thử thách. Phần 3: Giáo lý và thực hành của Phật giáo Tây Tạng Phần này tập trung vào các giáo lý và nghi thức đặc trưng của Kim Cương thừa, đặc biệt liên quan đến thiền định, cái chết và tái sinh. Mở đầu là phần trình bày vai trò của Mật điển trong nền văn học Phật giáo và làm sáng tỏ rằng Kim Cương thừa là một nhánh phát triển của Đại thừa. Tiếp đến, mandala và mantra (minh chú) và mudra (thủ ấn) là những phương tiện được Kim Cương thừa sử dụng để chuyển hóa tâm thức và liên kết với các phẩm chất giác ngộ. Hệ thống thực hành Mật điển, thực hành sơ khởi (ngöndro) và những giới nguyện gốc của Mật thừa được John Powers trình bày như là nền tảng tri thức và thực nghiệm cần thiết để hành giả đạt được kết quả viên mãn của Kim Cương thừa. Bên cạnh đó, những thực hành của Mật thừa sẽ không có ý nghĩa nếu chúng không liên hệ đến mục tiêu giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Do vậy, trong phần này, tác giả cũng phân tích chi tiết về tiến trình Bardo (trạng thái trung gian sau khi chết), các phương pháp du-già liên hệ đến tiến trình sinh tử, và các nghi lễ giúp một người tái sinh vào cõi lành. Phần 4: Các dòng truyền thừa chính của Phật giáo Tây Tạng Phần cuối của sách đi sâu vào các giáo lý cốt lõi và giới thiệu bốn dòng truyền thừa lớn: Nyingma – truyền thừa xưa nhất, nổi bật với giáo lý Dzogchen (Đại Viên Mãn). Kagyu – tập trung vào thực hành thiền định và giáo lý Mahamudra (Đại Ấn). ..                
**Cái tát Tunis** () là một lối diễn tả của báo chí đã được sử dụng chủ yếu bởi báo chí và các nhà sử học của Ý kể từ cuối thế kỷ XIX, để