✨Bảo tàng Quai Branly – Jacques Chirac
thumb|Quang cảnh của phòng triển lãm Châu Phi thumb|Một dòng chữ chuyển động, được gọi là "Dòng sông", một tác phẩm nghệ thuật của Charles Sandison, chảy xuống đoạn đường dốc quanh co dẫn từ lối vào của bảo tàng đến các phòng trưng bày chính
Bảo tàng Quai Branly (tiếng Pháp: Musée du quai Branly – Jacques Chirac) () là một bảo tàng về văn minh châu Á, châu Phi, châu Mỹ và châu Đại Dương nằm ở quận 7 thành phố Paris. Đây là một bảo tàng do kiến trúc sư người Pháp Jean Nouvel thiết kế, nhằm để giới thiệu nghệ thuật và văn hóa bản địa của Châu Phi, Châu Á, Châu Đại Dương và Châu Mỹ. Bộ sưu tập của bảo tàng bao gồm hơn một triệu hiện vật (hiện vật dân tộc học, ảnh, tài liệu, v.v.), trong đó 3.500 được trưng bày tại bất kỳ thời điểm nào, trong cả các cuộc triển lãm chuyên đề vĩnh viễn và tạm thời. Tuyển chọn các đồ vật từ bảo tàng cũng được trưng bày trong Pavillon des Sessions của Louvre.
Bảo tàng Quai Branly mở cửa vào năm 2006 và là bảo tàng mới nhất trong số các bảo tàng lớn ở Paris, từng đón 1,15 triệu lượt khách vào năm 2016. Bảo tàng do Bộ Văn hóa và Truyền thông Pháp và Bộ Giáo dục Đại học và Nghiên cứu đồng quản lý, vừa là bảo tàng vừa là trung tâm nghiên cứu. Musée du quai Branly nằm ở Quận 7 của Paris, trên bờ trái của Seine, gần Tháp Eiffel và Pont de l'Alma .
Bảo tàng cũng vướng nhiều tranh cãi khi một số người kêu gọi hồi hương các bộ sưu tập từng được mua lại thông qua các cuộc chinh phục thuộc địa.
Lịch sử
trái|nhỏ|Musée du quai Branly khi đang được xây dựng, tháng 5 năm 2000 phải|nhỏ|335x335px|Đầu của tổ tiên Moai từ [[Đảo Phục Sinh|Đảo Phục sinh (thế kỷ 11 - 15), được Chuẩn đô đốc người Pháp Lapelin mang đến Pháp năm 1872, hiện đang ở sảnh vào của bảo tàng]] nhỏ|335x335px|Học sinh tham quan phòng trưng bày Châu Mỹ, nhìn từ tầng lửng Theo truyền thống của các tổng thống Pháp, việc xây dựng các bảo tàng có thể coi là đài kỷ niệm cho thời gian tại vị của họ, ví dụ như các Tổng thống Georges Pompidou (Trung tâm Georges Pompidou); Valéry Giscard d'Estaing (Musée d'Orsay) và François Mitterrand (Grand Louvre), dự án bảo tàng mới tôn vinh nghệ thuật của châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á và Châu Đại Dương đã được hoàn thành dưới thời Tổng thống Jacques Chirac.
Kể từ nửa đầu thế kỷ 20, một số trí thức và nhà khoa học Pháp, bao gồm André Malraux, André Breton, và Claude Lévi-Strauss, đã kêu gọi thành lập một bảo tàng duy nhất và quan trọng ở Paris, dành riêng cho nghệ thuật và văn hóa của người bản địa trong các lãnh thổ thuộc địa, vốn được coi là những dân tộc nguyên thủy không có nền văn hóa riêng đối với khoa học thời đó và nghệ thuật phi châu Âu được coi là nghệ thuật kỳ lạ, dựa trên những bộ sưu tập lớn do các nnhà thám hiểm, truyền giáo, khoa học và dân tộc học người Pháp thu thập. Một nhà dân tộc học và nhà sưu tầm nghệ thuật tên làJacques Kerchache đã đưa ra đề xuất về một bảo tàng như vậy trong một tuyên ngôn năm 1990 trên tờ báo Libération, được gọi là "Những kiệt tác của toàn bộ thế giới được sinh ra tự do và bình đẳng." Bản tuyên ngôn được ký bởi ba trăm nghệ sĩ, nhà văn, triết học, nhân chủng học và sử học nghệ thuật. Ý tưởng này của Kerchache gây sự chú ý cho Jacques Chirac, lúc đó đang là Thị trưởng Paris, và sau đó ông trở thành cố vấn của ngài Thị trưởng. Khi Chirac được bầu làm tổng thống của Pháp vào năm 1995, ngay năm sau đó, ông công bố thành lập một bảo tàng mới kết hợp các bộ sưu tập của hai bảo tàng khác nhau:
- 25.000 đồ vật của Musée national des Arts d'Afrique et d'Océanie (MAAO hoặc Bảo tàng Quốc gia về Nghệ thuật Châu Phi và Châu Đại Dương), ban đầu được tạo ra cho Triển lãm Thuộc địa năm 1931, và sau đó được làm lại vào năm 1961 bởi André Malraux, Bộ trưởng Bộ Văn hóa dưới thời Tổng thống Charles DeGaulle, thành một bảo tàng dành riêng cho các nền văn hóa của những người nước ngoài thuộc Pháp.
- Các bộ sưu tập của phòng thí nghiệm dân tộc học của Musée de l'Homme ("Bảo tàng Con người"), được tạo ra cho Triển lãm Paris năm 1937 và chứa 250.000 đồ vật.
Tuy nhiên, hai viện bảo tàng có bộ sưu tập rất khác nhau về mục đích và cách tiếp cận; MAAO trước hết là một bộ sưu tập nghệ thuật, do các nhà sử học và bảo tồn nghệ thuật điều hành, trong khi Bảo tàng Con người do các nhà dân tộc học và nhân học điều hành, và quan tâm nhất đến bối cảnh văn hóa xã hội và cách sử dụng của các đồ vật. Kết quả của sự phân chia này, bảo tàng mới được đặt dưới quyền hai bộ khác nhau; Bộ Giáo dục, cơ quan giám sát việc giảng dạy và nghiên cứu dân tộc học; và Bộ Văn hóa và Truyền thông, cơ quan giám sát nghệ thuật.
Ngoài những bộ sưu tập hiện có này, được thu thập bởi các nhà thám hiểm người Pháp và các nhà dân tộc học từ khắp nơi trên thế giới, các giám đốc của bảo tàng mới đã mua thêm mười nghìn đồ vật.
Liên kết đầu tiên của bảo tàng là mở một phòng trưng bày mới trong Bảo tàng Louvre, khu Pavillon des Sessions, dành riêng cho những gì được gọi là nghệ thuật hàng đầu, nghệ thuật đầu tiên. Phần mới gặp phải sự phản kháng ngay lập tức; những người theo chủ nghĩa truyền thống cảm thấy rằng loại hình nghệ thuật này không thuộc về Louvre, trong khi nhiều nhà dân tộc học cảm thấy rằng nó có nguy cơ tách các bộ sưu tập thành hai phần, với những đồ vật tốt nhất sẽ đến Louvre. Vấn đề đã được giải quyết bằng một sắc lệnh của Tổng thống Chirac và chính phủ của Thủ tướng Lionel Jospin vào ngày 29 tháng 7 năm 1998, để xây dựng một bảo tàng hoàn toàn mới tại số 29-55 quai Branly trên bờ sông Seine không xa Tháp Eiffel ở quận 7 của Paris. Tháng 12 năm 1998, bảo tàng chính thức được thành lập và Stéphane Martin được bổ nhiệm làm chủ tịch.
Bộ sưu tập hiện vật
thumb|center|Musée du Quai Branly Bảo tàng có các bộ sưu tập của Musée national des Arts d'Afrique et d'Océanie và dân tộc học của Musée de l'Homme, cộng với việc mua lại gần đây các đối tượng. Bộ sưu tập có 300.000 tác phẩm, 700.000 bức ảnh, 320.000 tài liệu, 10.000 nhạc cụ và 25.000 mẫu dệt hoặc quần áo. Khu vực sưu tập trưng bày khoảng 3500 hiện vật, luân phiên 500 hiện vật mỗi năm. Hơn nữa, thư viện còn lưu giữ các bộ sưu tập của các nhà dân tộc học quan trọng, bao gồm Georges Condominas, Françoise Girard và Nesterenko, cũng như của nhà sưu tập nghệ thuật Jacques Kerchache.