✨Abenomics

Abenomics

thumb|Thủ tướng Abe thảo luận các chính sách kinh tế của ông trong một bài phát biểu tại [[Luân Đôn vào tháng 6 năm 2013.|thế=]]

đề cập đến các chính sách kinh tế do Thủ tướng Abe Shinzō đề xướng bắt đầu từ thời điểm tổng tuyển cử Nhật Bản, 2012 và sau đó Abe Shinzō được bầu làm thủ tướng Nhật Bản nhiệm kỳ thứ hai. Abenomics dựa trên 'ba mũi tên' là nới lỏng định lượng, kích thích tài khóa, cải cách cơ cấu. The Economist miêu tả chương trình giống như một 'hỗn hợp của tăng phát, chi tiêu chính phủ và một chiến lược tăng trưởng được thiết kế để bật dậy nền kinh tế thoát khỏi tình trạng ngủ đông mà đã từng bị cảm cúm trong hơn hai thập kỷ'.

Thuật ngữ Abenomics là từ kết hợp của Abeeconomics, kế thừa các từ mới chính trị trước đó dành cho các chính sách kinh tế liên quan đến các nhà lãnh đạo cụ thể như Reaganomics, Clintonomics, Rogernomics.

Bối cảnh

Điều kiện kinh tế Nhật Bản trước Abenomics

GDP danh nghĩa của Nhật Bản (chỉ số năm 1997 là 100) và Thu nhập bình quân hàng năm của Nhật Bản (chỉ số năm 1997 là 100). Chính phủ Nhật Bản đã tăng định mức thuế tiêu thụ từ 3% đến 5% vào năm 1997, điều này dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế và giảm phát nền kinh tế. Chính phủ tăng thuế tiêu thụ năm 1997 nhằm mục đích cân đối ngân sách, sau đó nguồn thu chính phủ giảm 4,5 nghìn tỷ JP¥ vì sức tiêu thụ suy giảm. Nhật Bản ghi nhận tốc độ tăng trưởng GDP 3% năm 1996 nhưng sau khi tăng thuế thì nền kinh tế chìm trong suy thoái. Tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa dưới mức 0 trong hầu hết 5 năm sau khi tăng thuế. Thu nhập bình quân hàng năm của Nhật Bản tăng trong giai đoạn 1992-1997, nhưng thu nhập bình quân bắt đầu giảm sau khi tăng thuế tiêu thụ có hiệu lực vào năm 1997. Sau năm 1997, thu nhập bình quân giảm nhanh hơn GDP danh nghĩa.

Năm 2012, Quốc hội Nhật Bản dưới thời thủ tướng Nhật Bản nhiệm kỳ trước là Noda Yoshihiko đã thông qua một dự luật tăng thuế tiêu thụ lên mức 8% năm 2014 và 10% năm 2015 để cân đối ngân sách quốc gia; việc tăng thuế tiêu thụ này dự kiến sẽ tiếp tục ngăn cản tiêu dùng.

Điều kiện kinh tế thế giới trước Abenomics

Trong thời kỳ đại suy thoái toàn cầu, Nhật Bản đã bị tổn thất 0,7% GDP thực tế trong năm 2008 và sau đó bị tổn thất nghiêm trọng 5,2% GDP trong năm 2009. Ngược lại, dữ liệu về tăng trưởng GDP thực tế của thế giới tăng 3,1% trong năm 2008 và sau đó tổn thất 0,7% trong năm 2009. Xuất khẩu từ Nhật Bản giảm từ 746,5 tỷ US$ năm 2008 xuống còn 545,3 tỷ US$ năm 2009, mức giảm 27%. GDP danh nghĩa tại Nhật Bản năm 2013 ở cùng mức năm 1991 trong khi chỉ số thị trường chứng khoán Nikkei 225 đạt đỉnh lần thứ ba. Chi tiêu tài khóa sẽ tăng 2% GDP, có thể làm tăng thâm hụt tới 11,5% GDP đối với năm 2013.

Hai trong 'ba mũi tên' đã được thực hiện trong tuần đầu tiên của chính phủ Abe Shinzō. Abe Shinzō nhanh chóng công bố dự luật kích thích tài khóa 10,3 nghìn tỷ JP¥ và bổ nhiệm Kuroda Haruhiko làm thống đốc ngân hàng Nhật Bản với nhiệm vụ tạo ra tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2% thông qua nới lỏng định lượng. Nhưng phó thống đốc ngân hàng Iwata Kikuo đã đề nghị rằng ngân hàng Nhật Bản không hoàn toàn nhắm đến mục tiêu định giá 2% trong hai năm, Iwata Kikuo ngụ ý rằng ngân hàng Nhật Bản sẽ không nới lỏng lại chính sách tiền tệ của mình nhằm mục đích ngăn chặn sự đình trệ kinh tế ngay sau khi tăng thuế tiêu thụ vào tháng 4 năm 2014.

Cải cách cơ cấu đã mất nhiều thời gian hơn để thực hiện, dù cho Abe Shinzō đã thực hiện một số động thái sớm trên mặt trận này như thúc đẩy sự tham gia của Nhật Bản vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương.

Nới lỏng định lượng

Ngân hàng Nhật Bản công bố chương trình nới lỏng định lượng vào ngày 4 tháng 4 năm 2013, theo đó ngân hàng Nhật Bản sẽ mua từ 60 nghìn tỷ JP¥ đến 70 nghìn tỷ JP¥ trái phiếu mỗi năm. Vào ngày 31 tháng 10 năm 2014, ngân hàng Nhật Bản công bố mở rộng chương trình mua trái phiếu, tính đến hiện tại họ mua 80 nghìn tỷ JP¥ trái phiếu mỗi năm.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Thủ tướng Abe thảo luận các chính sách kinh tế của ông trong một bài phát biểu tại [[Luân Đôn vào tháng 6 năm 2013.|thế=]] đề cập đến các chính sách kinh tế do Thủ
là một chính trị gia người Nhật Bản đã giữ chức Thủ tướng Nhật Bản bốn nhiệm kỳ liên tiếp đồng thời là Chủ tịch của Đảng Dân chủ Tự do (LDP) từ 2012 đến
**Joseph Eugene Stiglitz**, Ủy viên Hội Hoàng gia FBA (sinh ngày 9 tháng 2 năm 1943) là một nhà kinh tế Hoa Kỳ và là một giáo sư tại Đại học Columbia. Ông nhận giải
là một cựu nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô sinh ra tại tỉnh Ōita và thuộc về công ti Funstar Promotion. ## Sự nghiệp Năm 2013, cô ra mắt ngành phim khiêu
**Lịch sử kinh tế Nhật Bản** được quan tâm nghiên cứu chính là vì sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của nước này và bởi vì Nhật Bản là nền kinh tế quốc gia
là một niên hiệu của Nhật Bản bắt đầu từ ngày 8 tháng 1 năm 1989, một ngày sau khi Thiên hoàng Chiêu Hòa (huý Hirohito) băng hà, được đánh dấu bằng sự kiện Thái
nhỏ| [[Momoiro Clover Z (J-pop)]] cùng với "Gross National Cool" (tổng thú vị quốc gia, hình thức chơi chữ của tổng sản lượng quốc gia) là một khái niệm như một biểu hiện cho sự
, sinh ngày 14 tháng 4 năm 1981, là một chính trị gia Nhật Bản, thành viên của Hạ viện Nhật Bản, đảng viên Đảng Dân chủ Tự do. Ông là con trai thứ hai
Phong trào **#KuToo** là một phong trào đang diễn ra ở Nhật Bản chống lại chính sách giày cao gót tại nơi làm việc. Cái tên này ám chỉ đến phong trào Me Too và
là một chính trị gia người Nhật Bản và là cựu Thủ tướng Nhật Bản. Ông là vị thủ tướng mới đầu tiên dưới Thời kỳ Lệnh Hòa. Trước đây ông từng giữ chức vụ