✨Xe chiến đấu bộ binh Mitsubishi Type 89

Xe chiến đấu bộ binh Mitsubishi Type 89

Xe chiến đấu bộ binh Kiểu 89 Mitsubishi (tiếng Nhật: 三菱89式装甲戦闘車 Mitsubishi 89-shiki sōkō-sentō-sha) là xe chiến đấu bộ binh của Nhật Bản. Xe do do nhà thầu chính Mitsubishi và nhà thầu phụ Komatsu hợp tác chế tạo và trang bị cho Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản từ năm 1989.

Xe này có động cơ phía trước. Động cơ diesel 600 mã lực. Hộp số tự động. Vỏ xe bằng thép, một cải tiến so với vỏ bằng hợp kim nhôm của xe bọc thép Kiểu 73. Vũ khí chính là một khẩu pháo Oerlikon Contraves 35 mm trên tháp pháo có tốc độ bắn 300 phát/phút do Nhật Bản chế tạo theo giấy phép. Hai bên tháp pháo là 2 ống phóng tên lửa đa năng Jyu-MAT. Ngoài ra, xe còn được trang bị 1 súng máy 7,62 mm Kiểu 74. Phía dưới mỗi ống phóng tên lửa là một dãy 3 ống phóng lựu đạn khói. Xe có 8 ống tiềm vọng, trong đó 2 dành cho pháo thủ và 6 dành cho xa trưởng. Ngoài ra, tháp pháo còn được trang bị thiết bị cảnh báo bằng laser.

Tổ lái gồm 3 người trong đó xa trưởng và pháo thủ trên tháp pháo. Chiến sĩ bộ binh đi cùng là 6 người, ngồi trong khoang dành riêng ở sau xe, trong đó 3 chiến sĩ ngồi bên trái, 1 chiến sĩ ngồi phía sau, 2 chiến sĩ ngồi bên phải. Mỗi chiến sĩ có 1 lỗ hỏa mai và một kính tiềm vọng. Cửa ra vào cho chiến sĩ bộ binh gồm 2 cánh cửa mở phía sau.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Xe chiến đấu bộ binh Kiểu 89 Mitsubishi** (tiếng Nhật: 三菱89式装甲戦闘車 _Mitsubishi 89-shiki sōkō-sentō-sha_) là xe chiến đấu bộ binh của Nhật Bản. Xe do do nhà thầu chính Mitsubishi và nhà thầu phụ Komatsu
**Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản** (tiếng Anh: _Japan Ground Self-Defense Force_, , Hán-Việt: _Lục thượng tự vệ đội_), thường được gọi tắt là **JGSDF** (, Hán-Việt: _Lục tự_), là lực lượng lục
là một kiểu xe tăng hạng trung được Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong chiến đấu từ năm 1932 đến năm 1942 tại chiến trường Trung Quốc, Nặc Môn Khâm và nhiều
(hay còn gọi là **Ke-Go Kiểu 97**) là kiểu xe tăng hạng nhẹ được Lục quân Đế quốc Nhật Bản thiết kế và sử dụng trong Chiến tranh Trung-Nhật, Chiến tranh biên giới Xô-Nhật và
là kiểu xe tăng hạng trung được Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Chiến tranh Trung-Nhật, Chiến tranh biên giới Xô-Nhật và trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, thay thế
**Sumitomo NTK-62** (62式7.62mm機関銃 Rokuni-shiki Nana-ten-rokuni-miri Kikanjū) là loại súng máy đa chức năng tiêu chuẩn của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản, dùng đạn 7.62×51mm NATO. Ở trong nước, nó hay được gọi tắt là
**Tàu khu trục lớp Atago** (tiếng Nhật: あたご型護衛艦) là một lớp tàu khu trục tên lửa (**DDG**) được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên
**Tàu ngầm lớp Sōryū** (tiếng Nhật: そうりゅう) hay **16SS** là lớp tàu ngầm điện-diesel do Mitsubishi Heavy Industries và Kawasaki Heavy Industries hợp tác chế tạo cho Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản
**Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản**, tên chính thức trong tiếng Nhật là , là lực lượng vũ trang của Nhật Bản, được thành lập căn cứ Luật Lực lượng phòng vệ năm 1954. Lực
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã