✨Vương quốc Shilluk
Vương quốc Shilluk do người Shilluk thống trị nằm dọc theo tả ngạn sông Nin Trắng, ở khu vực ngày nay là Nam Sudan và miền nam Cộng hòa Sudan. Kinh đô của vương quốc là thị trấn Fashoda. Theo lịch sử dân gian Shilluk và các ghi chép lân cận, vương quốc do Nyikang, người có lẽ sống vào nửa sau của thế kỷ 15, thành lập. Là một dân tộc Nin, người Shilluk đã cố gắng thành lập một vương quốc tập trung hóa đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, trong thời kỳ suy tàn của Vương quốc Hồi giáo Funj phía bắc. Vào thế kỷ 19, người Shilluk bị ảnh hưởng bởi các cuộc tấn công quân sự từ Đế quốc Ottoman, khiến vương quốc bị tàn phá vào đầu những năm 1860. Vua Shilluk hiện không phải là một nhà lãnh đạo chính trị độc lập mà là một thủ lĩnh truyền thống trong chính phủ Nam Sudan và Sudan. Vị vua hiện tại của Shilluk là Đức vua Reth Kwongo Dak Padiet, lên ngôi năm 1993.
Chế độ quân chủ (Reth) có bản chất chính trị và tôn giáo. Nhà vua đảm bảo trật tự xã hội; sức khỏe của ông và của quốc gia gắn liền với nhau. Việc thờ cúng được thực hiện trong các nghi lễ lấy cảm hứng từ thần thoại quốc gia về Nyikang, vị Reth đầu tiên. Chế độ quân chủ Shilluk và tín ngưỡng của người dân đã được Charles Seligman nghiên cứu vào năm 1911 và bởi nhà nhân chủng học người Anh James George Frazer trong The Golden Bough sau đó năm năm. Seligman mô tả hình thức chính quyền Shilluk là một "vương quyền linh thiêng".
Địa lý và con người
trái|nhỏ|Một nhóm người Shilluk vào khoảng năm 1860, ngay trước khi vương quốc sụp đổ. Đàn ông lõa thể, mặc da mèo hoặc cừu non, trong khi phụ nữ và trẻ em mặc da bê. Vương quốc nằm trên một dải đất dọc theo cả hai bờ sông Nin Trắng và sông Sobat, từ hồ No đến khoảng 12° vĩ độ bắc. Người Shilluk có quan hệ gần gũi với các nhóm dân tộc Nam Sudan đông hơn, Nuer và Dinka (lần lượt là láng giềng của họ ở phía nam và phía đông). Ngôn ngữ của họ có liên quan đến thứ tiếng của người Anuak gần sông Baro và Pibor.
Cái tên Shilluk bắt nguồn từ tiếng Ả Rập, trong khi người Shilluk tự gọi là Cøllø hoặc Chollo. Điều này (và theo niềm tin của nhiều người Shilluk) cho thấy nguồn gốc chung với người Acholi, một sắc dân khác sống trên biên giới Uganda-Nam Sudan và các dân tộc Luo ở Tanzania, Kenya, CHDC Congo, Tchad, Cộng hòa Trung Phi và Ethiopia (Anuak).
Giống như hầu hết các dân tộc Nin ở Nam Sudan (chẳng hạn như người Nuer và Dinka), người Shilluk chăn nuôi gia súc bán du mục tự cung tự cấp và trồng ngũ cốc. Hệ thống xã hội của họ nhìn chung bình đẳng, khi đàn gia súc có giá trị biểu tượng lớn. Lối sống của người Shilluk hiện đại cũng tương tự nhưng sở hữu ít con hơn. Họ định canh định cư vì đất đai dọc theo sông Nin Trắng màu mỡ hơn những nơi khác trong vùng. Việc trồng cây durra, một loại lúa miến, giúp họ trở thành một dân tộc nông nghiệp tương đối thịnh vượng trừ những đợt hạn hán kéo dài. Dân số người Shilluk ngày nay được ước tính là 1,7 triệu nhân khẩu vào năm 2005; trong thế kỷ 19, ước tính họ có khoảng 200.000 người sống ở hàng trăm ngôi làng. Vương quốc được chia thành hai tỉnh: Gher (Gärø) ở phía bắc và Luak (Lwagø) ở phía nam, được chia thành các khu.
Lịch sử
Nguồn gốc và di cư
Theo truyền thuyết của dân tộc Shilluk, vương quốc được thành lập vào năm 1490 khi người cai trị huyền thoại đầu tiên ("Reth") là anh hùng mang tên Nyikang. Ông tự nhận mình là nửa người nửa cá sấu và có thể sai khiến được mưa. Nyikang là con trai của vị vua Okwa, người cai trị một quốc gia nằm ở "phương nam xa xôi, gần một hồ nước lớn". Đây có thể là hồ Albert, nơi người Acholi sinh sống. Sau khi Okwa băng hà, Nyikang gây chiến với anh trai mình là Duwadh, người kế vị ngai vàng hợp pháp. Chấp nhận thất bại, Nyikang rời quê hương cùng đoàn tùy tùng và di cư về phía đông bắc đến Wau (gần Bahr el Ghazal, "sông linh dương" trong tiếng Ả Rập). Tại đây (được người Shilluk gọi là Pothe Thuro) Nyikang kết hôn với con gái của vị pháp sư địa phương Dimo. Sau một cuộc xung đột với Dimo Nyikang di cư về phía bắc (băng qua Bahr el Ghazal) đến Acietagwok (một ngôi làng Shilluk cách làng Tonga khoảng 30 kilômét (19 mi) về phía tây) vào khoảng năm 1550. Nyikang sau đó đến Nyilual, một vùng không có người ở phía tây thành phố Malakal ngày nay.
Tôn giáo và huyền thoại
nhỏ|Dòng sông Sobat ở Nam Sudan ngày nay, nơi Nyikang thành lập Vương quốc Shilluk. Giống như các dân tộc Nin khác, người Shilluk không coi trọng vũ trụ học. Họ tập trung vào một nhân vật đã sống cách đây rất lâu, cuộc đời chủ yếu mang tính thần thoại: Vua Nyikang. Nguồn gốc của ông được coi là thần thánh, khi một con bò trắng tên là Dean Aduk (Dhyang Adugø) mang một quả bầu. Khi quả bầu bị xé nát, một người đàn ông tên là Kolo (Köölø, Pöölø) xuất hiện. Kolo sinh ra Omaro (Omaarø), người này sinh ra Wat Mol (Wäd Möölø), rồi Wat Mol sinh ra Okwä.
Okwa được cho là đã đến thăm một bờ sông và nhìn thấy hai phụ nữ trẻ đẹp, Nyakayo (Nyikaayø) và Ongwak, từ dưới nước bước lên. Họ có mái tóc dài và một phần cơ thể có hình cá sấu. Okwa dùng vũ lực bắt lấy họ; nhưng họ hét lên báo động cho người cha, Dunyel Ju'Okwa đang ở gần đó. Dunyel có phần thân bên phải là người còn bên trái là cá sấu. Sau một hồi bàn bạc, Dunyel đồng ý gả hai cô con gái của mình cho Okwa (Okwä) với giá làm dâu cao. Nyakayo (Nyikaayø) và Okwa sinh nhiều con; Nyikang được một số người coi là con trai cả của ông, nhưng theo những người khác ông lại là con út. Một truyền thống khác nói rằng anh trai song sinh của Nyikang là Duwat (Dïwäädɔ). Theo một niềm tin phổ biến, hợp lưu của sông Sobat và sông Nin Trắng chính là quê hương của Nyakayo.