✨Vương quốc Mysore

Vương quốc Mysore

Vương quốc Mysore là vương quốc nằm ở phía nam Ấn Độ, theo truyền thống cho rằng vương quốc đã được thành lập năm 1399 ở khu vực quanh thành phố Mysore sau này. Vương quốc, được cai trị bởi gia tộc Wodeyar, ban đầu là quốc gia chư hầu của Đế quốc Vijayanagara. Với sự suy yếu của Đế quốc Vijayanagara (năm 1565), vương quốc tuyên bố độc lập. Vào thế kỷ 17 chứng kiến ​​sự mở rộng lãnh thổ liên tục và dưới thời cai trị của Narasaraja Wodeyar I và Chikka Devaraja Wodeyar, vương quốc đã sáp nhập những vùng đất rộng lớn hiện nay là miền nam Karnataka và một phần của Tamil Nadu để trở thành một quốc gia hùng mạnh ở miền nam Deccan.

Vương quốc đã tăng trưởng bền vững thu nhập, dân số, bình quân đầu người, do sự thay đổi cấu trúc trong nền kinh tế và tăng tốc độ đổi mới kỹ thuật, dẫn tới sức mạnh kinh tế và quân sự đạt đến đỉnh cao trong nửa sau của thế kỷ 18 dưới thời cai trị của Haider Ali và con là Tipu Sultan. Trong thời gian này, vương quốc đã xảy ra xung đột với Đế quốc Maratha, Nizam của Hyderabad, Vương quốc Travancore và Đế quốc Anh, đỉnh điểm là bốn cuộc chiến trong Chiến tranh Anglo-Mysore. Mysore thắng lợi trong cuộc chiến thứ nhất của Chiến tranh Anglo-Mysore và bế tắc trong cuộc chiến thứ hai dẫn tới thất bại trong cuộc chiến thứ ba và thứ tư. Sau khi vua Tipu tử trận trong cuộc chiến thứ tư năm 1799, phần lớn vương quốc đã bị sát nhập vào Anh, báo hiệu sự kết thúc của một thời kỳ bá quyền của người Mysore ở miền nam Deccan. Anh cho gia tộc Wodeyars trở lại ngai vàng bằng cách thiết lập liên minh phụ trợ và Mysore bị thu nhỏ đã trở thành một thân vương quốc. Wodeyars tiếp tục cai trị cho đến năm 1947 khi Ấn Độ giành độc lập, theo đó Mysore đồng ý gia nhập Liên hiệp Ấn Độ.

Ngay cả khi là một tiểu bang, Mysore được tính vào các khu vực phát triển và đô thị hóa cao của Ấn Độ. Trong giai đoạn 1799-1947, cũng chứng kiến ​​Mysore nổi lên như một trong những trung tâm nghệ thuật và văn hóa quan trọng ở Ấn Độ. Các vị vua Mysore không chỉ là những người có tài năng mỹ thuật và thư pháp, họ còn là những người ủng hộ nhiệt tình, và di sản của họ tiếp tục ảnh hưởng đến âm nhạc và nghệ thuật cho đến ngày nay.

Lịch sử

Lịch sử ban đầu

thumb|Vương quốc Mysore (1794)

Tư liệu lịch sử về vương quốc bao gồm nhiều bản khắc bằng đồng và thạch bản còn sót lại, các ghi chép từ cung điện Mysore và các nguồn văn học đương đại ở Kannada, bằng tiếng Ba Tư và các ngôn ngữ khác. Theo các tài liệu cổ, vương quốc bắt nguồn từ một tiểu bang nhỏ có đô thành tại thành phố hiện đại Mysore và được thành lập bởi hai anh em, Yaduraya (còn được gọi là Vijaya) và Krishnaraya. Nguồn gốc của vương quốc lâm vào thế bí trong tài liệu cổ và vẫn còn là một vấn đề tranh cãi; trong khi một số nhà sử học đặt ra một nguồn gốc phía bắc tại Dwarka, những người khác đưa ra quan điểm ở Karnataka. Yaduraya được cho là đã kết hôn với Chikkadevarasi, công chúa địa phương và đảm nhận danh hiệu phong kiến ​​"Wodeyar" ("Lãnh chúa"), mà các triều đại sau vẫn tiếp tục sử dụng. Sự đề cập cụ thể đầu tiên của gia tộc Wodeyar là vào văn học Kannada (ಕನ್ನಡ ಸಾಹಿತ್ಯ) thế kỷ 16 từ thời vua Vijayanagara Achyuta Deva Raya (1529-1542); bản khắc sớm nhất có thể tìm được, do chính Wodeyars ban hành, có niên đại dưới sự cai trị của tiểu vương Timmaraja II năm 1551.

Tự trị

Các vị vua sau cai trị là chư hầu của đế quốc Vijayanagara cho đến khi đế quốc suy yếu sau năm 1565. Đến thời điểm này, vương quốc đã mở rộng đến ba mươi ba ngôi làng được bảo vệ bởi một lực lượng gồm 300 binh sĩ. Vua Timmaraja II đã chinh phục một số tiểu quốc xung quanh, và vua Chamaraja IV Bola ("hói"), đã cống nạp cho quốc vương danh nghĩa Vijayanagara. Sau khi Aravidu Aliya Rama Raya qua đời, Wodeyars bắt đầu độc lập hơn trước và vua Raja Wodeyar I đã giành quyền kiểm soát Srirangapatna từ tỉnh trưởng của Vijayanagara (Mahamandaleshvara) Aravidu Tirumalla – một sự phát triển gây chú ý, và đã được vua Venkatapati Raya, vua đế quốc Vijayanagar, ngầm chấp thuận. Raja Wodeyar I cũng chứng kiến sự bành trướng lãnh thổ với sự sáp nhập Channapatna về phía bắc từ Jaggadeva Raya – một sự phát triển khiến Mysore trở thành yếu tố chính trong khu vực. Tham vọng bành trướng vẫn tiếp tục quay trở lại phía nam tấn công vào Tamil nơi Narasaraja Wodeyar giành được Sathyamangalam (nay là miền Bắc huyện Coimbatore) trong khi người kế nhiệm Dodda Devaraja Wodeyar mở rộng hơn nữa để chiếm phía tây Tamil là Erode và Dharmapuri, đánh bại thành công cuộc tấn công của triều Madurai Nayak. Cuộc xâm lược của Keladi Nayakas ở Malnad cũng được xử lý thành công. Thời kỳ này cũng theo sau bởi những thay đổi địa chính trị phức tạp, khi vào thập niên 1670, Marathas và Mughals gây áp lực vào Deccan. Vương quốc nhanh chóng phát triển bao gồm Salem và Bangalore ở phía đông, Hassan ở phía tây, Chikkamagaluru và Tumkur ở phía bắc và phần còn lại của Coimbatore ở phía nam. Mặc dù mở rộng, vương quốc, hiện chiếm một phần đất đai ở vùng trung tâm phía nam Ấn Độ, kéo dài từ Ghat Tây đến ranh giới phía tây của đồng bằng bờ biển Coromandel, vẫn nằm trong đất liền mà không có lối đi trực tiếp ven biển. Những nỗ lực mở rộng của vua Chikka Devaraja đã khiến Mysore xung đột với Nayaka của Ikkeri và các vị vua (Rajas) của Kodagu (nay là Coorg); người kiểm soát bờ biển Kanara (nay là khu vực ven biển của Karnataka) và khu vực đồi xen kẽ tương ứng. The conflict brought mixed results with Mysore annexing Periyapatna but suffering a reversal at Palupare.

Tuy nhiên, từ khoảng năm 1704, khi vương quốc chuyển sang "Muteking" (Mukarasu) Kanthirava Narasaraja II, sự tồn tại và bành trướng của vương quốc đã đạt được bằng áp dụng chiến thuật liên minh, đàm phán, cơ hội và sáp nhập lãnh thổ theo tất cả các hướng. Theo các nhà sử học Sanjay Subrahmanyam và Sethu Madhava Rao, Mysore chính thức là một chư hầu của đế chế Mughal. Tài liệu Mughul tuyên bố Mysore cống nạp thường xuyên (peshkash). Tuy nhiên, nhà sử học Suryanath U. Kamath cho rằng Mughals có thể coi Mysore là đồng minh, do tình trạng đối đầu giữa Mughal-Maratha tranh giành quyền lực tối cao ở miền nam Ấn Độ. Đến thập niên 1720, đế quốc Mughal suy tàn, các tình thế phức tạp nảy sinh với Mughal ở cả Arcot và Sira tuyên bố đòi cống nạp. Sau sự cai trị của Krishnaraja II đã chứng kiến ​​các Deccan Sultanates bị lu mờ trước Mughals và trong sự hỗn loạn sau đó, Haider Ali, sĩ quan quân đội, đã nổi lên. Sự trỗi dậy của Haidar đến vào thời điểm phát triển chính trị quan trọng ở tiểu lục địa. Trong khi các cường quốc châu Âu đang bận rộn chuyển mình từ các công ty thương mại thành các cường quốc chính trị, thì Nizam với tư cách là Subedar (dưới quyền) của Mughals theo đuổi tham vọng của mình ở Deccan và Marathas, sau thất bại của họ tại Panipat, tìm kiếm nơi trú ẩn an toàn ở phía nam. Thời kỳ này cũng chứng kiến ​​cuộc tranh giành giữa Pháp với người Anh để kiểm soát Carnatic, một cuộc chiến mà người Anh cuối cùng thắng thế khi tư lệnh người Anh Sir Eyre Coote đánh bại quân Pháp dưới quyền Comte de Lally tại Trận chiến Wandiwash năm 1760, một bước ngoặt trong lịch sử Ấn Độ khi nó củng cố uy quyền tối cao của Anh ở Nam Á. Mặc dù Wodeyars vẫn là người đứng đầu danh nghĩa của Mysore trong thời kỳ này, quyền lực thực sự nằm trong tay của Haider Ali và con trai của Tipu.

Năm 1761, mối đe dọa Maratha đã giảm bớt và 1763, Haider Ali đã chiếm được vương quốc Keladi, đánh bại những người cai trị của Bilgi, Bednur và Gutti, xâm chiếm các Malabar ở phía nam và chinh phục các Zamorin thủ đô Calicut một cách dễ dàng vào năm 1766 và mở rộng vương quốc Mysore cho đến Dharwad và Bellary ở phía bắc. Mysore giờ đây là một cường quốc lớn ở tiểu lục địa, gia tăng quyền lực của Haider, cũng tạo ra một thách thức cho quyền bá chủ của Anh đối với tiểu lục địa Ấn Độ và bị Mysore ngăn chặn trong hơn 30 năm.

Trong nỗ lực ngăn chặn sự trỗi dậy của Haidar, người Anh đã thành lập một liên minh với Marathas và Nizam của Golconda, kết thúc trong Chiến tranh Anglo-Mysore thứ nhất vào năm 1767. Mặc dù ưu thế về số lượng, Haider Ali đã phải chịu thất bại trong các trận chiến Chengham và Tiruvannamalai. Người Anh phớt lờ lời đề nghị hòa bình cho đến khi Haider Ali đã có chiến lược di chuyển quân đội tới năm dặm gần Madras (nay là Chennai) và có thể cầu hòa thành công. Năm 1770, khi quân đội Maratha của Madhavrao Peshwaxâm xâm lấn Mysore (ba cuộc chiến đã diễn ra giữa năm 1764 và 1772 bởi Madhavrao chống lại Haider, trong đó Haider đã thua), Haider mong đợi sự hỗ trợ của Anh theo hiệp ước 1769 nhưng Anh đã không can thiệp và tránh khỏi cuộc xung đột. Sự phản bội của người Anh và sự thất bại sau đó của Haider đã củng cố sự ngờ vực sâu sắc của Haider đối với người Anh, suy nghĩ được chia sẻ cho con trai ông và một người sẽ tham gia vào chiến tranh Anglo-Mysore trong ba thập kỷ tới. Năm 1777, Haider Ali đã phục hồi các lãnh thổ đã mất trước đây là Coorg và Malabar từ Marathas. Quân đội của Haider Ali tiến về Marathas và giành chiến thắng tại Trận Saunshi. Tuy nhiên, Haider Ali đã bị Marathas và Nizam phản bội, họ đã thực hiện các hiệp ước với người Anh. Vào tháng 7 năm 1779, Haider Ali lãnh đạo một đội quân gồm 80,000 người, chủ yếu là kỵ binh, đi qua Ghats trước khi bao vây các pháo đài của Anh ở phía bắc Arcot bắt đầu Chiến tranh Anglo-Mysore lần thứ hai. Haider Ali đã có một số thành công ban đầu chống lại người Anh đáng chú ý tại Pollilur, thất bại tồi tệ nhất mà người Anh phải chịu ở Ấn Độ cho đến Chillianwala, và Arcot, Sir Eyre Coote xuất hiện, tình hình bắt đầu thay đổi. Vào ngày 1 tháng 6 năm 1781 Coote giáng một đòn nặng nề đầu tiên vào Haider Ali trong trận chiến quyết định tại Porto Novo. Trận chiến Coote đã giành chiến thắng trước tỷ lệ 5 lính Mysore trên 1 lính Anh và được coi là một trong những chiến công vĩ đại nhất của người Anh ở Ấn Độ. Tiếp theo là một trận chiến khốc liệt khác tại Pollilur (trước đó tại đây Haider Ali cũng đã giành chiến thắng lực lượng Anh) vào ngày 27 tháng 8, trong đó người Anh đã giành được một thành công khác, và thất bại tiếp tục của quân đội Mysore tại Sholinghur tháng sau. Haider Ali chết vào ngày 7 tháng 12 năm 1782, ngay khi cuộc chiến vẫn tiếp diễn với người Anh. Con trai ông đã kế vị thành công và cùng Tipu Sultan tiếp tục chiến sự chống lại người Anh bằng cách chiếm lại Baidanur và Mangalore.

Đến năm 1783, cả người Anh và Mysore đều không thể có được một chiến thắng chung cuộc. Người Pháp đã rút lại sự ủng hộ đối với Mysore sau khi dàn xếp hòa bình ở châu Âu. Không nản lòng, Tipu, thường được gọi là "Con hổ của Mysore", tiếp tục cuộc chiến chống lại người Anh nhưng đã mất một số khu vực ở Karnataka ven biển hiện nay. Chiến tranh Maratha–Mysore xảy ra giữa năm 1785 và 1787 và bao gồm một loạt các cuộc xung đột giữa Sultanate Mysore và Đế chế Maratha. Sau chiến thắng của Tipu Sultan trước Marathas tại Cuộc bao vây Bahadur Benda, một thỏa thuận hòa bình đã được ký kết giữa hai vương quốc với những lợi ích và tổn thất. Tương tự như vậy, hiệp ước Mangalore đã được ký vào năm 1784, khiến cho người Anh tạm dừng, ngừng bắn tạm thời, và khôi phục lại vùng đất khác nguyên hiện trạng status quo ante bellum. Hiệp ước là một tài liệu quan trọng trong lịch sử Ấn Độ, bởi vì đây là cơ hội cuối cùng khi một thế lực Ấn Độ ra điều khoản cho người Anh. Sự khởi đầu thù địch mới giữa người Anh và người Pháp ở châu Âu là lý do để Tipu bãi bỏ hiệp ước của mình và tiếp tục tham vọng tấn công người Anh. Những nỗ lực của ông nhằm thu hút Nizam, Marathas, Pháp và Quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ đã không mang được viện trợ quân sự trực tiếp. Ban đầu, người Anh đã kiếm được lợi, chiếm lấy huyện Coimbatore, nhưng cuộc phản công của Tipu đã đảo ngược nhiều lợi ích này. Đến năm 1792, với sự trợ giúp từ Marathas tấn công từ phía tây bắc và Nizam tấn công từ phía đông bắc, người Anh dưới sự lãnh đạo của Hầu tước Cornwallis đã bao vây thành công Srirangapatna, dẫn đến thất bại của Tipu và Hiệp ước Srirangapatna. Một nửa Mysore được phân phối cho các đồng minh và hai con trai của ông bị bắt để đòi tiền chuộc. Một Tipu nhục nhã nhưng bất khuất đã xây dựng lại sức mạnh kinh tế và quân sự của mình. Ông đã cố gắng để ngấm ngầm giành chiến thắng dưới sự hỗ trợ của Cách mạng Pháp, Amir của Afghanistan, Đế chế Ottoman và Ả Rập. Tuy nhiên, những nỗ lực này liên quan đến người Pháp đã sớm được người Anh biết đến, những người đang chiến đấu với người Pháp ở Ai Cập, được Marathas và Nizam hậu thuẫn. Năm 1799, Tipu tử trận trong cuộc bảo vệ Srirangapatna tại Chiến tranh Anglo-Mysore lần thứ tư, báo trước sự kết thúc nền độc lập của Vương quốc. Các nhà sử học Ấn Độ hiện đại coi Tipu Sultan là kẻ thù vô địch của người Anh, một nhà quản trị tài năng và một nhà đổi mới.

Phiên vương quốc

thumb|"Cung điện Maharajah của Mysore, Ấn Độ," từ tờ Tin tức London minh họa, năm 1881 (với màu vẽ tay)|275x275px Sau sự thất bại của Tipu, một phần của vương quốc Mysore đã bị thôn tính và phân chia giữa tỉnh chư hầu Madras và Nizam. Lãnh thổ còn lại được chuyển thành Phiên vương quốc chính thống; Krishnaraja III, nên 5 tuổi đã được sắp đặt lên ngôi với tổng lý (Diwan) Purnaiah, người trước đó đã phục vụ dưới thời Tipu, xử lý vai trò như nhiếp chính và Trung tá Barry Close chiếm vai trò Thường trú Anh. Người Anh sau đó nắm quyền kiểm soát chính sách đối ngoại của Mysore, cống nạp hàng năm và một khoản trợ cấp để duy trì một đội quân Anh đứng vững tại Mysore. Diwan Purnaiah nổi bật với chính quyền tiến bộ và đổi mới cho đến khi ông nghỉ hưu vào năm 1811 (và qua đời ngay sau đó) sau sinh nhật lần thứ 16 của vị vua trẻ. thumb|[[Cung điện Mysore xây dựng giữa năm 1897 và 1912|278x278px]]

Những năm sau đó chứng kiến ​​mối quan hệ thân mật giữa Mysore và người Anh cho đến khi mọi thứ bắt đầu trở nên tồi tệ vào những năm 1820. Mặc dù Thống đốc Madras, Thomas Munro, kiên quyết theo đuổi điều tra cá nhân năm 1825 vấn đề xác định cáo buộc tài chính bịa đặt bởi A. H. Cole, Thường trú đương nhiệm của Mysore, cuộc nổi dậy Nagar (dân sự) đã nổ ra đến cuối thập kỷ thay đổi đáng kể mọi thứ. Năm 1831, cuộc nổi dậy khép lại và sau đó viện dẫn chính quyền yếu kém, người Anh nắm quyền kiểm soát trực tiếp Phiên vương quốc. Trong năm mươi năm tiếp theo, Mysore được trao dưới sự cai trị của các Cao ủy Anh; Ngài Mark Cubbon, nổi tiếng về chính trị, nắm quyền từ năm 1834 đến năm 1861 và đưa vào sử dụng một hệ thống hành chính hiệu quả và thành công, khiến Mysore trở thành một quốc gia phát triển tốt.

Tuy nhiên, vào năm 1876-1877, vào cuối thời kỳ cai trị trực tiếp của Anh, Mysore đã bị nạn đói tàn phá với số liệu tử vong ước tính trong khoảng từ 700,000 đến 1,000,000, tức gần 1/5 dân số. Không lâu sau đó, Maharaja Chamaraja X, được đào tạo trong hệ thống của Anh, fdax lên ngôi vua Mysore năm 1881, Anh đã biến Mysore trở thành quốc gia nửa thuộc địa. Theo đó, một sĩ quan thường trú người Anh đã được bổ nhiệm vào triều đình Mysore và một Diwan để xử lý chính quyền Maharaja. Từ đó trở đi, cho đến khi Ấn Độ giành độc lập vào năm 1947, Mysore vẫn là một Phiên vương quốc trong Đế quốc Ấn Độ thuộc Anh, với triều Wodeyars tiếp tục sự cai trị.

Quân chủ

Maharaja của Mysore là tước hiệu chính thức của quân vương Vương quốc Mysore cho đến khi bãi bỏ chế độ quân chủ vào năm 1950; và cũng là danh hiệu người đứng đầu hoàng tộc từ 1950 đến 1971; và, không chính thức cho người đứng đầu của hoàng gia sau khi loại bỏ các danh hiệu và đặc quyền vào năm 1971.

Nhiếp chính

Trong giai đoạn 1761–1799 danh hiệu nhiếp chính Mysore (Sultanate của Mysore) là người nắm thực quyền của vương quốc.

  • Hyder Ali (1761–1782)
  • Tipu Sultan (1782–1799)

    Diwans Mysore

    Diwans của Mysore là chức vụ Tổng lý cho triều đình các vua Mysore. Chức vụ còn được gọi Tể tướng Mysore.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương quốc Mysore** là vương quốc nằm ở phía nam Ấn Độ, theo truyền thống cho rằng vương quốc đã được thành lập năm 1399 ở khu vực quanh thành phố Mysore sau này. Vương
**Phiên vương quốc** (Hán-Việt: 藩王國, tiếng Anh: Princely state), gọi tắt **phiên quốc**, hoặc **thổ bang**, là một quốc gia chư hầu nằm dưới quyền cai trị của các hoàng tộc bản địa Ấn Độ,
Vương quốc **in đậm** là vương quốc chứa nhiều các vương quốc nhỏ. ## Châu Phi * Ai Cập cổ đại - (3150 TCN - 30 TCN) * Vương quốc Kerma - (2500 TCN -
**Đế chế Maratha** (tiếng Anh: _Maratha Empire_; tiếng Marathi: मराठा साम्राज्य; tiếng Ba Tư: امپراتوری ماراتا), còn được gọi là **Liên minh Maratha** (tiếng Anh: _Maratha Confederacy_), là một đế chế thời kỳ đầu hiện
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
**Warren Hastings** FRS, PC (06/12/1732 - 22/08/1818), là một chính khách người Anh, Thống đốc đầu tiên của Pháo đài William (thuộc địa Bengal), người đứng đầu Hội đồng tối cao Bengal (Supreme Council of
**Richard Colley Wellesley, Hầu tước Wellesley thứ 1** (20/06/1760 - 26/09/1842) là một chính trị gia và quản lý thuộc địa người Anh-Ireland. Ông được phong Tử tước xứ Wellesley cho đến năm 1781, sau
thumb|Một bức khắc [[mezzotint của Fort William, Calcutta, thủ phủ Xứ chủ quản Bengal ở Ấn Độ thuộc Anh năm 1735.]] **Các tỉnh Ấn Độ thuộc Anh**, trước đó là các **xứ chủ quản** (presidencies)
**Nawab của Bengal** (tiếng Bengal: বাংলার নবাব) là người cai trị cha truyền con nối của Subah Bengal thuộc Đế quốc Mogul (Ấn Độ). Nawab của một phiên vương quốc hoặc tỉnh tự trị có
**Thống chế Arthur Wellesley, Công tước thứ 1 xứ Wellington** (khoảng 1 tháng 5 năm 1769 – 14 tháng 9 năm 1852) là một quý tộc và quân nhân người Ireland gốc Anh trong Quân
**Sultan Fateh Ali Tipu** (Kannada: ಟಿಪ್ಪು ಸುಲ್ತಾನ್) () Tháng 11 năm 1750, Devanahalli – 4 tháng 5 năm 1799, Srirangapattana), có biệt hiệu **Con hổ vùng Mysore**, là vua _thực quyền_ của Vương quốc Mysore
**Ashoka Đại Đế** (br. **𑀅𑀲𑁄𑀓** sa. _aśoka_, pi. _asoka_, zh. 阿育王, hv. A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Ma-gát-đa (sa. _maurya_, zh. 孔雀, hv. Khổng Tước) thời Ấn Độ xưa, trị
**Nhà nước Hyderabad** còn được gọi là **Hyderabad Deccan** (), là một phiên vương quốc nằm ở miền Trung Nam của Ấn Độ với thủ phủ là thành phố Hyderabad. Sau khi Cộng hoà Ấn
**Tập đoàn Hinduja** là một công ty tập đoàn Ấn Độ có trụ sở tại Luân Đôn, Vương quốc Anh. Họ tham gia vào một loạt các hoạt động bao gồm đúc, xuất nhập khẩu,
Nước Hoa Dubai Chính Hãng Ghala Zayed Luxury Royal Sang Trọng, Nam Tính 100mlNước hoa Ghala Zayed Royal Luxury có hương hương thơm cổ điển. Một trong những mùi yêu thích của nhiều người nổi
**Shrirangapattana** là một thị xã của quận Mandya thuộc bang Karnataka, Ấn Độ. ## Địa lý Shrirangapattana có vị trí Nó có độ cao trung bình là 679 mét (2227 feet). ## Nhân khẩu Theo điều tra
**Jog Falls** là một thị xã của quận Shimoga thuộc bang Karnataka, Ấn Độ. ## Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Jog Falls có dân số 12.570 người. Phái
**Kerala**, tên trong tiếng Malayalam là **Keralam** (tiếng Malayalam: , ) là một bang thuộc miền Nam Ấn Độ. Bang được thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1956 theo Đạo luật Tái tổ chức
**Thuyền trưởng Nemo**, hay còn gọi là **Hoàng tử Dakkar**, là nhân vật trong tiểu thuyết _Hai vạn dặm dưới đáy biển_ (1870) và _Hòn đảo bí mật_ (1874) của Jules Verne. Ông cũng xuất
**Phó vương và Toàn quyền Ấn Độ** (Tiếng Anh: Viceroy and governor-general of India; 1773 - 1950, từ 1858 đến 1947 được gọi là Phó vương và Toàn quyền Ấn Độ) là đại diện của
**Charles Cornwallis, Hầu tước Cornwallis thứ nhất** (31/12/1738 - 05/10/1805), là một tướng lĩnh và quan chức của Quân đội Anh. Từ năm 1753 đến 1762, ông được phong Tử tước xứ Brome và từ
**Hổ Bengal** hay **Hổ hoàng gia Bengal** (danh pháp khoa học: **_Panthera tigris tigris_**) là một phân loài hổ được tìm thấy nhiều nhất tại Bangladesh, Ấn Độ, Nepal, Bhutan và miền nam Tây Tạng.
nhỏ|Sultan [[Mehmed II của đế quốc Ottoman]] **Sultan** (phiên âm tiếng Việt: _xun-tan_; tiếng Ả Rập: سلطان _Sultān_) là một tước hiệu chỉ vua của ở các xứ mà Hồi giáo được tôn là quốc
**Bang Madras** hay **Tỉnh Madras** (tiếng Anh: _Madras Province_ hay _Madras Presidency_; tiếng Hindi: मद्रास प्रांत), tên gọi chính thức cho tới năm 1935 là **Bang Pháo đài St. George**, là một phân khu hành
**Cuộc quyết đấu giữa hổ và sư tử** hay là sự so sánh hổ (cọp) và sư tử ai mạnh hơn ai, kẻ nào mới thực sự là vua của muông thú luôn là một
**Dharma Raja Karthika Thirunal Rama Varma** (Tiếng Malayalam: ധർമ്മരാജാ കാർത്തിക തിരുനാൾ രാമവർമ്മ,1724 - 17 tháng 2 năm 1798) là vị vua thứ 2 của vương quốc Travancore và cai trị từ năm 1758 - 1798.
**Công ty Đông Ấn** () hay còn được gọi bằng những cái tên khác như **Công ty thương mại Đông Ấn** (), **Công ty Đông Ấn Anh** () và, sau Đạo luật Liên minh nó
**Nam Ấn Độ** () là một khu vực của Ấn Độ gồm các bang Andhra Pradesh, Karnataka, Kerala, Tamil Nadu và Telangana cùng các lãnh thổ liên bang Andaman và Nicobar, Lakshadweep và Puducherry, chiếm
Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ năm
**Ấn Độ thuộc địa** () là phần Tiểu lục địa Ấn Độ bị các cường quốc thực dân châu Âu chiếm đóng trong Kỷ nguyên Khám phá. Kỷ nguyên này đã khiến các quốc gia
nhỏ|phải|Một con ngựa kéo với các bộ phận được ràng vào người hỗ trợ cho việc khai thác sức kéo của nó [[Ngựa Shire]] nhỏ|phải|Một con ngựa kéo xe ở [[Trung Quốc]] **Ngựa kéo** (tiếng
**Holi** (phát âm: /ˈhoʊliː/; chữ phạn: होली _Holī_) là một lễ hội mùa xuân của người theo đạo Hindu
Trong khảo cổ học, **thời đại đồ sắt** là một giai đoạn trong phát triển của loài người, trong đó việc sử dụng các dụng cụ bằng sắt như là các công cụ và vũ
**Padishah**, **Padshah**, **Padeshah**, **Badishah** hay **Badshah** (theo tiếng Ba Tư **پادشاه** _Pādeshāh_) là một tước hiệu rất được trọng vọng, ráp từ hai chữ Ba Tư _pād_ "chủ" và _shāh_ "vua", có thể gọi là
nhỏ|phải|[[Hổ là loài vật ăn thịt người nhiều nhất trong họ nhà mèo.]] **Động vật ăn thịt người** dùng để chỉ về những động vật săn bắt và ăn thịt con người như là một
**Tiếng Dakhini** hoặc **Dakkhani** (cũng viết là **Dakkani ()**, **Dakhni** và **Deccani**), là một ngôn ngữ Ấn-Arya được nói ở miền nam Ấn Độ. Nó phát sinh như một ngôn ngữ của sultanat Deccan 1300
nhỏ|Kaveri chảy qua miền Nam Karnataka và sau đó vào Tamil Nadu. **Kaveri** là một sông lớn tại Ấn Độ. Nơi khởi nguồn của sông theo quan niệm truyền thống là Talakaveri, Kodagu thuộc dãy
nhỏ|phải|Tuy ít tấn công con người nhưng những vụ việc tấn công do gấu gây ra rất khủng khiếp **Gấu tấn công** hay **một cuộc tấn công con gấu** theo cách hiểu thông dụng là
nhỏ|phải|Svāmī Vivekānanda **_Svāmī Vivekānanda_** (Bengali: স্বামী বিবেকানন্দ _Shami Bibekanondo_; tiếng Anh: _Swami Vivekananda_), tên khai sinh là **Narendranath Dutta** (_Nôrendronath Dotto_) (12 tháng 1 năm 1863 - 4 tháng 7 năm 1902) là một tu
**Báo hoa mai tấn công** chỉ về những cuộc tấn công vào con người và gia súc, vật nuôi của loài báo hoa mai. Những vụ việc tấn công chủ yếu xảy ra ở Ấn
Ngày **1 tháng 11** là ngày thứ 305 (306 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 60 ngày trong năm. ## Sự kiện *604 – Thánh Đức Thái tử của Nhật Bản ban hành quan