Vương Phượng (, ?-22 TCN) là đại thần nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là ngoại thích làm phụ chính 11 năm dưới thời Hán Thành Đế.
Thân thế
Vương Phượng tên tự là Hiếu Khanh. Ông là dòng dõi Điền An thời Hán Sở, người được Hạng Vũ phong làm Tế Bắc vương. Tế Bắc vương bị Tề vương Điền Vinh tiêu diệt nhưng dòng dõi vẫn ở lại nước Tề. Vì Điền An đã làm "vương" nên người nước Tề vẫn gọi là "vương gia", con cháu lấy Vương làm họ.
Ông nội Vương Phượng là Vương Hạ từng làm Tú y nội sử thời Hán Vũ Đế. Cha Vương Phượng là Vương Cấm giữ chức Đình uý sử. Vương Cấm có người con gái là Vương Chính Quân là hoàng hậu của Hán Nguyên Đế. Vương Phượng là em trai của Chính Quân. Nhờ thân thế ngoại thích, ông được vào làm quan trong triều.
Đại thần nhà Hán
Thăng tiến
Năm 48 TCN, Vương Chính Quân được phong hoàng hậu. Năm 42 TCN, Vương Phượng được phong làm Dương Bình hầu.
Năm 36 TCN, ông được phong làm Thị trung vệ uý.
Năm 33 TCN, Nguyên đế mất, con là Thành Đế lên thay, Vương hoàng hậu trở thành Hoàng thái hậu. Vương Phượng được phong làm Đại Tư mã, coi việc Thượng thư. Ông trở thành quan phụ chính đại thần của nhà Tây Hán.
Dựa vào thế lực của Thái hậu, từ đó Vương Phượng và các anh em họ Vương tất cả bảy người chuyên quyền, chia nhau nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Hán. Hán Thành đế không có thực quyền trên ngai vàng.
Đuổi Lưu Khang
Thành Đế chơi bời, ham tửu sắc, cơ thể suy nhược, không sinh được con. Vì vậy vua chọn người em là Định Đào vương Lưu Khang làm người kế vị. Thành Đế hậu đãi và gần gũi Lưu Khang khiến anh em Vương Phượng không yên tâm. Ông lo sợ sau này Lưu Khang lên ngôi sẽ tước quyền của họ Vương, do đó ông tìm cách đẩy Định Đào vương ra khỏi kinh thành.
Năm 24 TCN, nhân có nhật thực, Vương Phượng nói với Hán Thành Đế:
:Định Đào vương tuy là thân thích nhưng lẽ phải ở nước phong, nay cứ ở mãi kinh sư là điều khác thường, do đó Trời cảnh báo. Nên cho vương về nước
Thành Đế buộc phải nghe theo, cho Lưu Khang trở về Định Đào. Một viên quan trong triều là Vương Chương vốn tính cương trực, bất mãn về việc đó, liền vào tâu với Thành Đế, vạch tội Vương Phượng mượn nhật thực để đuổi Lưu Khang và kể nhiều tội trạng chuyên quyền của ông và đề cử người khác làm phụ chính.
Vương Phượng có thủ hạ trong triều rất đông, báo lại việc Vương Chương. Vương Phượng bèn tuyệt thực để gây áp lực với Thành Đế, Vương thái hậu cũng tuyệt thực theo để ủng hộ. Thành Đế đành phải xin lỗi Vương Phượng và Thái hậu là mình "làm việc không sáng suốt". Theo ý của Thái hậu và Vương Phượng, Thành Đế hạ lệnh bắt Vương Chương vào ngục và giam đến chết.
Bãi phong Lưu Hâm
Vương Phượng quyết định toàn bộ việc triều chính của Thành Đế, kể cả những việc nhỏ vua Hán cũng không được quyết.
Hán Thành Đế thấy con trai Quang lộc đại phu Lưu Hướng là Lưu Hâm có tài, bèn triệu vào cung sát hạch và rất ngưỡng mộ. Thành Đế quyết định phong cho Lưu Hâm làm Trung thường thị, đã chuẩn bị mũ áo làm lễ phong thì cận thần - số đông là thủ hạ của họ Vương - tâu rằng phải xin ý kiến Vương Phượng trước.
Thành Đế đành nghe theo, triệu ông đến. Vương Phượng lắc đầu nói rằng Lưu Hâm không đạt, nên việc phong chức bị bãi bỏ. Thành Đế không dám làm trái ý ông.
Đề cử Vương Mãng
Năm 22 TCN, Vương Phượng lâm bệnh mất. Ông làm quan trong triều đình nhà Hán 20 năm, làm phụ chính đại thần 11 năm, được đặt tên thuỵ là Kính Thành.
Do khi ốm nặng, ông được người cháu gọi bằng chú là Vương Mãng – con người anh là Vương Mạn đã mất sớm - tận tình chăm sóc nên Vương Phượng rất cảm động. Trước khi qua đời, ông đã nói với Vương thái hậu và Hán Thành Đế quan tâm tới Vương Mãng. Vương Phượng mất, Hán Thành Đế bèn phong cho Vương Mãng làm Hoàng môn lang. Đó chính là bước khởi điểm cho sự nghiệp đế vương của Vương Mãng 30 năm sau.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Phượng** (, ?-22 TCN) là đại thần nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là ngoại thích làm phụ chính 11 năm dưới thời Hán Thành Đế. ## Thân thế Vương Phượng
nhỏ|265x265px|Bức tượng _[[Người suy tư_, Auguste Rodin|thế=]] Thuật ngữ "**Triết học phương Tây**" muốn đề cập đến các tư tưởng và những tác phẩm triết học của thế giới phương Tây. Về mặt lịch sử,
**Trần Hàm** (chữ Hán: 陈咸, ? – ?), tên tự là **Tử Khang**, người huyện Hào, quận Bái , là quan viên nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Hán Nguyên đế
**Vương Phượng** (chữ Hán: _王凤_, ? – ?), người huyện Tân Thị, quận Giang Hạ, Kinh Châu , một trong những đầu lãnh khởi nghĩa Lục Lâm cuối đời Tân. ## Khởi binh phản Tân
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Vương Phương** (chữ Hán: 王方, bính âm: Wang Fang) là một viên tướng dưới trướng của Đổng Trác trong thời kỳ Tam Quốc của Lịch sử Trung Quốc. Sau khi Đổng Trác bị Lã Bố
**Dương Hùng** (chữ Hán: 扬雄, 53 TCN – 18), tên tự là **Tử Vân**, người Thành Đô, Thục Quận, là nhà văn, nhà triết học cuối đời Tây Hán, đầu đời Tân. Ông được Tam
**Vương Nguyên** (chữ Hán: 王元, ? - ?), tên tự là **Huệ Mạnh** hay **Du Ông**, người Trường Lăng, quận Kinh Triệu, là tướng lãnh các lực lượng quân phiệt của Ngôi Hiêu ở Lũng
Bức _Trinh nữ dịu dàng và trầm ngâm có sức mạnh thuần dưỡng kỳ lân_ (1602), tranh [[fresco,Domenico Zampieri, trưng bày tại Palazzo Farnes, Roma]] **Kỳ lân** trong văn hóa châu Âu hay còn gọi
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Đông Phương Sóc** (, 154 TCN - 93 TCN), là một học giả nổi tiếng ở tỉnh Sơn Đông, cùng thời với Tư Mã Thiên và dưới thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt. Ông là
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
**Hán Thành Đế** (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy **Lưu Ngao** (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai
thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Trung Quốc tại thủ đô [[Seoul, Hàn Quốc]] thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Hàn Quốc tại thủ đô [[Bắc Kinh, Trung Quốc]] **Quan hệ Trung Quốc – Hàn Quốc** là quan hệ ngoại giao
phải|nhỏ|Một ví dụ về sự Tây hóa: [[Thời kỳ Minh Trị, Nhật Bản, Thân vương Yorihito Higashifushimi trong bộ đồng phục hải quân phương Tây điển hình với găng tay trắng, cầu vai, huân chương
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
Theo một số tài liệu nghiên cứu gần đây thì giữa Thế giới Phật giáo và nền văn minh Phương Tây đã có những cuộc gặp gỡ cách hàng ngàn năm. Thế nhưng chỉ sau
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hán Huệ Đế** (chữ Hán: 漢惠帝, 210 TCN – 26 tháng 9, 188 TCN), tên thật **Lưu Doanh** (劉盈), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Chung Quân** (chữ Hán: 终军, ? – 112 TCN), tự Tử Vân, người quận Tế Nam , nhà văn, nhà ngoại giao, quan viên đời Tây Hán. Ông tham gia sứ đoàn đến Nam Việt,
**María del Pilar của Tây Ban Nha** (; 4 tháng 6 năm 1861 – 5 tháng 8 năm 1879) là người con thứ ba cũng như là con gái thứ hai sống qua tuổi ấu
**Tương** (; ? - ?), không rõ họ, là khai quốc công thần nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tương không rõ họ, không rõ quê quán, là đội sử
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Thiểm Tây** (, ) là một tỉnh của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Thiểm Tây là tỉnh đông thứ mười sáu về số dân, đứng thứ mười lăm về kinh tế Trung
**Vương Chính Quân** (chữ Hán: 王政君; 71 TCN - 3 tháng 2, 13), cũng được gọi **Nguyên hậu** (元后), **Hán Nguyên hậu** (漢元后), **Hiếu Nguyên hậu** (孝元后), **Tân thất Văn mẫu** (新室文母), **Hiếu Nguyên Vương
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Tây Vương Mẫu** (chữ Hán: 西王母, còn gọi là **Vương Mẫu** (王母), **Dao Trì Kim Mẫu** (hay **Diêu Trì Kim Mẫu**, 瑤池金母), **Tây Vương Kim Mẫu** (西王金母), **Vương Mẫu Nương Nương** (王母娘娘) hoặc **Kim Mẫu
Phim _Tây du ký_ có lực lượng diễn viên đông đảo, với sự góp mặt của đội ngũ diễn viên có tên tuổi lúc bấy giờ và một số diễn viên không chuyên. Tuy nhiên,
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
upright=1.2|nhỏ|Năm bước trong quá trình làm giấy, được [[Thái Luân phát minh vào năm 105, thời Đông Hán]] Triều đại nhà Hán (206 TCN - 220) thời cổ Trung Hoa, chia ra làm hai giai
**Hán Cao Tổ** (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy **Lưu Bang** (劉邦), biểu tự **Quý** (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Triệu Vũ Đế** (chữ Hán: 趙武帝, 257 TCN hoặc 235 TCN - 137 TCN), húy **Triệu Đà** (chữ Hán: 趙佗), là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt và nhà Triệu, án ngữ tại
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Hán Canh Thủy Đế** (chữ Hán: 漢更始帝; ? – 25), tên húy **Lưu Huyền** (劉玄), là Hoàng đế nhà Hán giai đoạn giao thời giữa Tây Hán và Đông Hán. Ông đã tham gia khởi
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Lịch sử Tây Tạng từ năm 1950 đến nay** bắt đầu từ sau trận Qamdo năm 1950. Trước đó, Tây Tạng đã tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1913. Năm 1951, người
**Hồ Tây** (với các tên gọi khác trong lịch sử như **Đầm Xác Cáo**, **Hồ Kim Ngưu**, **Lãng Bạc**, **Dâm Đàm**, **Đoài Hồ**) là hồ tự nhiên lớn nhất thành phố Hà Nội, hiện thuộc
**Tây Tạng** là một khu vực tại Trung Á, nằm trên cao nguyên Thanh Tạng, có cao độ trung bình trên 4.000 mét và được mệnh danh là "nóc nhà của thế giới". Con người
**Lư Phương** (chữ Hán: 卢芳, ? - ?), tự **Quân Kỳ**, người huyện Tam Thủy, quận An Định, Lương Châu , thủ lĩnh quân phiệt đầu đời Đông Hán, tự nhận là Lưu Văn Bá,
**Lang Gia Vương thị** (琅琊王氏), là thế tộc họ Vương tại quận Lang Gia (琅邪郡). Lang Gia Vương thị hưng khởi lúc thời Hán, thời Đông Tấn phát triển thành gia tộc cao nhất trong
**Mông Cổ chinh phục Tây Hạ** hay **Chiến tranh Mông - Hạ** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế quốc Mông Cổ và vương quốc Tây Hạ của người Đảng Hạng. Với sự
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王浚; 252-314) là tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia vào loạn bát vương và trở thành lực lượng quân phiệt khi Ngũ Hồ tràn vào
Bộ phim truyền hình **Tây Du Ký** phiên bản 1986 là sử dụng nhiều ca khúc này. Trong phần một Với 25 tập phim, bộ phim có đến 20 ca khúc sử dụng trong phim
nhỏ|301x301px|Tượng gốm mô phỏng bộ binh và kỵ binh thời Tây Hán, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Hải Nam. Nhà Hán là hoàng triều thứ hai của Trung Quốc kế tục nhà Tần (221