✨Vịnh Nha Trang
Vịnh Nha Trang (hay còn có tên gọi khác là Vịnh Bình Cang) là một vịnh ven bờ biển nằm ở phía Đông thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, có tổng diện tích khoảng . Là vịnh lớn thứ hai của tỉnh Khánh Hòa sau Vịnh Vân Phong, Vịnh Nha Trang bao gồm diện tích các đảo, trong đó đảo lớn nhất là Hòn Tre và nhỏ nhất là Hòn Nọc. Khí hậu ở Vịnh Nha Trang phân thành hai mùa rõ rệt, mang đặc trưng của kiểu gió đất–biển, đồng thời chịu tác động của yếu tố địa hình trong khu vực và hệ thống gió mùa. Sự thay đổi nhiệt độ theo ngày ở Vịnh Nha Trang được đánh giá là lớn và rõ nét, chịu tác động mạnh và đồng thời của ba nhân tố gồm nhiệt đới, gió mùa và địa phương. Sông Cái Nha Trang là nguồn nước ngọt chính đổ vào vịnh. Dao động nước biển ở khu vực này tồn tại ở ba loại hình chính: dao động lắc, dao động triều và dao động mực nước theo chu kỳ năm. Dòng chảy và sóng của Vịnh Nha Trang chịu tác động của hướng gió mùa.
Lịch sử hình thành của Vịnh Nha Trang trải qua năm giai đoạn, bắt đầu từ thời kỳ biển tiến trước kỷ băng hà cuối cùng và còn tiếp tục phát triển đến tận ngày nay. Địa hình của Vịnh Nha Trang khác nhau theo hai phần phía Bắc và phía Nam. Phần đáy biển được chia làm ba đới động lực và chín đơn vị địa mạo. Trầm tích trong khu vực Vịnh Nha Trang bao gồm cả trầm tích cổ và trầm tích hiện đại. Trầm tích hiện đại mang nguồn gốc lưu chuyển và nguồn gốc sinh vật. Vùng bờ quanh các đảo, các rạn san hô chết và sườn bờ ngầm cung cấp vật liệu từ cát trung trở xuống. Trong khi đó, vật liệu trầm tích từ các con sông lân cận và những dòng bồi tích ven bờ cung cấp cho vịnh những thành phần khoáng vật từ các đá mắc ma và trầm tích biến chất. Trầm tích tầng mặt Vịnh Nha Trang phân thành tám kiểu khác nhau, trong đó bao gồm trầm tích cổ và trầm tích hiện đại. Sự phân bố trầm tích khác nhau theo chiều từ bắc xuống nam, từ bờ ra biển. Hàm lượng khoáng vật trong Vịnh Nha Trang tồn tại ở cả dạng khoáng vật nặng và khoáng vật nhẹ, với thành phần khoáng vật nhẹ chiếm ưu thế.
Vịnh Nha Trang được cho là "một trong những hình mẫu tự nhiên hiếm có của hệ thống vũng, vịnh trên thế giới" khi chứa đựng hầu hết các hệ sinh thái điển hình của vùng biển nhiệt đới, trong đó rạn san hô, rừng ngập mặn và thảm cỏ biển được cho là những hệ sinh thái tiêu biểu. Đặc biệt, với 40% san hô tạo rạn trên toàn thế giới, khu vực này được đánh giá là có tầm quan trọng quốc tế và có mức độ đa dạng sinh học cao nhất ở Việt Nam. Hoạt động kinh tế của Vịnh Nha Trang bao gồm khai thác, nuôi trồng thủy sản và du lịch. Trong đó, phát triển du lịch là định hướng được ưu tiên chú trọng. Ngoài tư cách thành viên của Câu lạc bộ những vịnh đẹp nhất thế giới, Vịnh Nha Trang còn được xếp hạng là di tích quốc gia. Thế mạnh du lịch của khu vực này là sự đa dạng của hệ thống biển đảo và cảnh quan xung quanh. Tuy nhiên, Vịnh Nha Trang vẫn phải đối mặt với các vấn đề mang tính tự nhiên, xã hội, môi trường nhằm hướng tới phát triển bền vững.
Vị trí địa lý và giới hạn
phải|nhỏ|Vịnh Nha Trang (vùng được giới hạn bởi đường ranh giới màu đỏ) và các vùng biển lân cận.
Vịnh Nha Trang, trước đây còn gọi là Vịnh Bình Cang, nằm ở phía Đông bờ biển thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, có tọa độ địa lý được xác định từ 12°8
Có 19 đảo nằm trong Vịnh Nha Trang. mang đặc trưng của kiểu gió đất biển.
Dao động nhiệt độ theo ngày ở Vịnh Nha Trang được đánh giá là lớn và rõ nét, chịu tác động mạnh và đồng thời của ba nhân tố gồm nhiệt đới, gió mùa và địa phương. Một đặc trưng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa trong khu vực Vịnh Nha Trang là giao động áp suất theo chu kỳ nửa ngày, với giá trị cao vào mùa gió đông và thấp vào mùa hè. Biên độ dao động nhiệt độ không khí theo ngày ở các tháng chủ yếu của mùa gió gần như tương đương với biên độ dao động theo năm, với đặc điểm ban ngày nóng và ban đêm nhiệt độ giảm nhanh, chứng tỏ có sự tác động của các yếu tố địa phương. Trong yếu tố gió biến động theo ngày, có sự tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố gió mùa và gió đất–biển.
Thủy văn
Lượng mưa trung bình năm của Vịnh Nha Trang là 1.285 mm, với Sông Cái Nha Trang là nguồn nước ngọt chính đổ vào vịnh, tương ứng lưu lượng trung bình là 2.226 km³/năm. Thủy triều tại Vịnh Nha Trang mang tính chất nhật triều không đều. Cụ thể, từ tháng 10 đến tháng 3, thủy triều thấp vào buổi sáng, nhưng từ tháng 4 đến tháng 9, thủy triều thấp vào buổi chiều, còn các tháng 9 và tháng 10 thì thủy triều thường thấp vào buổi trưa, riêng hai tháng 3 và 4 thủy triều xuống vào lúc nửa đêm. Thời gian thủy triều mạnh nhất trong năm là vào các tháng 6, 7, 11 và 12. Dao động mực nước biển theo mùa của Vịnh Nha Trang khác nhau theo mỗi mùa gió. Mực nước trung bình của mùa gió Đông Bắc thường cao hơn mùa gió Tây Nam từ 20 đến 30 cm. Trong một nghiên cứu của các nhà khoa học đến từ Viện Hải dương học Nha Trang thực hiện vào năm 2018, mực nước tại Vịnh Nha Trang bắt đầu có xu hướng dâng lên từ năm 1999 và kể từ năm 2006 đến năm 2016, quá trình nước dâng diễn ra nhanh, vượt qua trị số trung bình tại vịnh và không thấy có dấu hiệu suy giảm. Nguyên nhân chính gây ra hiện tượng này là do biến đổi khí hậu và một số yếu tố mang tính quá trình khác.
Dòng chảy và sóng của Vịnh Nha Trang cũng chịu tác động của hướng gió mùa. Trong thời kỳ gió mùa Đông Bắc, dòng chảy tầng mặt của vịnh có hướng Tây và Tây Nam và hướng sóng là Đông Bắc; ngược lại, trong mùa gió Tây Nam, dòng chảy sẽ có xu hướng là Đông Bắc và hướng sóng chủ yếu là Đông Nam. Thành phần thủy triều cũng tác động đến dòng chảy trong khu vực.
Môi trường
Theo Nguyễn Tác An và cộng sự, trong mùa khô, nhiệt độ bề mặt nước biển của Vịnh Nha Trang có xu hướng tăng dần từ ngoài khơi vào ven bờ. Nhiệt độ khu vực phía nam của vịnh thấp hơn so với phần phía bắc. Tại tầng đáy, nhiệt độ giảm dần từ ven bờ ra vùng khơi. Còn trong mùa mưa, nhiệt độ bề mặt vịnh có xu hướng tăng dần theo hướng ven bờ ra vùng khơi. Độ muối của vịnh phụ thuộc vào chế độ mưa trong vùng lẫn toàn khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên. Giá trị hàm lượng muối cao nhất rơi vào nửa đầu tháng 8 và thấp nhất vào tháng 11. Độ muối tầng mặt của vịnh vào mùa mưa có giá trị trung bình cao hơn mùa khô. Độ trong suốt của nước biển khác nhau giữa vùng gần bờ và xa bờ và có giá trị trung bình cao hơn vào mùa khô.
Nghiên cứu về đặc trưng quang học trong nước biển tại Vịnh Nha Trang do Phan Minh Thụ và các đồng nghiệp tiến hành vào năm 2013–2014 đã cung cấp những cái nhìn ban đầu về các đặc tính quang học hiển nhiên (AOP) và đặc tính quang học tuyệt đối (IOP) của khu vực này. Theo đó, các yếu tố AOP và IOP ở Vịnh Nha Trang biến động theo mùa, đồng thời chịu sự chi phối từ nguồn vật chất bên ngoài. Hệ số suy giảm ánh sáng trung bình ở tầng ưu quang là 0,122 ± 0,052 m−1 vào mùa khô và 0,187 ± 0,121 m−1 vào mùa mưa; tương ứng với độ sâu tầng ưu quang trung bình là 29,50 ± 9,05 m vào mùa khô và 24,68 ± 10,60 m vào mùa mưa. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn chỉ ra rằng hệ số hấp thụ ánh sáng của các thành phần vật chất trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với các thông số môi trường.
Địa chất
Lịch sử hình thành
Theo các nhà khoa học, lịch sử hình thành của khu vực Vịnh Nha Trang có thể chia làm năm giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là biển tiến trước thời kỳ băng hà cuối cùng, với vết tích là các hốc sóng vỗ và mảnh sò ốc ở độ cao 10–15 m trên đồi 233 phía Bắc đầm Tân Thủy. Giai đoạn biển thoái trong thời kỳ băng hà cuối cùng xảy ra khi nước biển rút xuống đường đẳng sâu 100 m hiện nay, để lại các dấu vết địa chất cho thấy có các đường bờ cổ ở độ sâu 33–100 m; sau đó giai đoạn biển tiến Flandrian xảy ra nhanh, làm cho các dạng địa hình cổ nhanh chóng bị xóa, đẩy mực nước lên đến cực đại (cao hơn 4 m so với ngày nay) và hình thành các thềm đá cuội ở hòn Tằm, hòn Miễu, đến cuối giai đoạn này thì các rạn san hô phát triển rất mạnh. Ở giai đoạn biển thoái hậu Flandrian, vùng biển ven bờ Nha Trang và một số khu vực lân cận bị trầm tích sông lấp đầy; khiến một số vách đứng bị chết, các thềm mài mòn nhô lên mặt nước, các dạng tích tụ 4–5 m và 1–2 m bị mài mòn cũng như xóa sổ các rạn san hô ven bờ. Ngày nay, kiểu địa hình bờ cắt khía nguyên thủy đang bị thay đổi do các hoạt động mài mòn và tích tụ. Các đồng bằng tích tụ đang làm cho khu vực đáy biển nông dần. Việc các vách đứng bị chết, cũng như sự hình thành của các thềm tích tụ dưới chân những vách đứng này chứng tỏ quá trình biển thoái ở khu vực vẫn còn đang tiếp tục.
Địa hình, địa mạo
Đặc điểm địa hình
Tại độ sâu từ 0–10 m phía Bắc Vịnh Nha Trang, địa hình có dạng nghiêng thoải, có hướng Tây Bắc – Đông Nam, bao gồm nhiều cồn, rạn ngầm, chủ yếu là các rạn san hô đã chết nằm ở độ sâu từ 2–4 m. Các đảo nhỏ trong khu vực khiến cho địa hình đáy biển ở khu vực bị chia cắt mạnh, tạo thành các máng trũng, rộng, nghiêng về phía địa hình đáy có hướng Tây Nam – Đông Bắc. Ở độ sâu từ 10–20 m, địa hình bằng phẳng hơn và nghiêng từ Tây sang Đông, độ dốc thay đổi từ 0,2–10°. Khi đến độ sâu từ 20–30 m, địa hình bắt đầu lượn sóng và bị chia cắt bởi các máng trũng, có độ sâu thay đổi không lớn. Ở độ sâu từ 30–40 m, địa hình dốc hơn và uốn lượn theo đường bờ biển. Từ độ sâu lớn hơn 50 m đến 80 m tính từ mặt nước biển, địa hình dốc thoải và nghiêng về phía biển theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Địa hình từ độ sâu 10 m đến đáy biển ven bờ bãi biển Nha Trang nghiêng thoải theo độ dốc trung bình từ 2–50°. Càng về phía nam, địa hình đáy càng dốc hơn. Độ dốc trung bình dao động từ 10–150°.
Do là khu vực có nhiều đảo nên phần phía nam Vịnh Nha Trang có địa hình đáy biển bị chia cắt mạnh, tạo nên nhiều lạch sâu, máng trũng, kéo dài ở độ sâu 15–20 m, đôi khi có dạng lòng chảo. Ở độ sâu từ 0–10 m phía nam sông Lô đến mũi Cầu Hin, địa hình đáy khá dốc, với độ dốc trung bình từ 5–100° và sau đó thoải đều theo hướng Tây Bắc – Đông Nam đến độ sâu 30 m. Từ độ sâu 30–40 m, địa hình trở nên dốc hơn, tuy nhiên đến độ sâu 40–50 m thì địa hình bắt đầu bằng phẳng, gồm các hố trũng và các gò cao nhô lên khỏi mặt đáy từ 2–4 m tại phía đông nam Hòn Mun. Ở độ sâu từ 50–80 m, địa hình khá bằng phẳng và nghiêng dốc, với độ dốc thay đổi từ 2–50° theo hướng Động Bắc – Tây Nam. với hàm lượng trung bình lớn hơn 2%. Có khoảng 20 loại khoáng vật nặng khác nhau được tìm thấy trong khu vực này, gồm ba nhóm: nhóm khoáng vật chủ yếu (inmenit, hornblend, rutin, zirconi, magnetit, granat, muscovit, biotit, tourmalin, epidot); nhóm khoáng vật thứ yếu (kyanit, titanit, storolit, cassiterit) và nhóm khoáng vật ít gặp (chu sa, apatit, monazit). Đây còn là nơi sinh sống của hơn 26 loài cá thương phẩm, 200 loài cá sống ở tầng đáy, 30 loài cá sống ven bờ, 33 loài cá sống ở cửa sông và 176 loài cá sống ở các rạn san hô.
Các hệ sinh thái tiêu biểu
Rạn san hô
nhỏ|phải|Cá rạn san hô ở Vịnh Nha Trang Theo Nguyễn Văn Long và cộng sự, rạn san hô trong Vịnh Nha Trang phân bố chủ yếu quanh các đảo và quanh Bãi Cạn Lớn. Vì vậy, rạn san hô ở khu vực này được đánh giá là có tầm quan trọng quốc tế và có mức độ đa dạng sinh học cao nhất ở Việt Nam. Một nghiên cứu khác cũng của Nguyễn Văn Long về sự phân bố của các loài cá rạn tại khu vực vùng biển Nam Trung Bộ thì Vịnh Nha Trang có tổng cộng 528 loài. Mức độ đa dạng loài là 20,7 loài/100 m². Trong đó, mức độ đa dạng của các loài trong họ Cá bướm là 1,6 loài/100 m², họ Cá mó là 1,9 loài/100 m², họ Cá đuôi gai là 1,9 loài/100 m², họ Cá sơn là 1,5 loài/100 m² và họ Cá phèn là 0,4 loài/100 m². Mật độ cá rạn ở khu vực này là 136,4 con/100 m², trong đó có sự phân bố cao của hai nhóm cá ăn rong (79,4 con/100 m²) và cá ăn tạp (6,5 con/100 m²).
Rừng ngập mặn
Kết quả kiểm tra thực địa năm 2015 đã xác định rừng ngập mặn trong Vịnh Nha Trang tồn tại dưới dạng các dải hẹp, phân bố tập trung ở khu vực Đầm Báy. Diện tích rừng ngập mặn ước đạt khoảng , gồm rừng tự nhiện và .
Thảm cỏ biển
Trong tổng số 28 khu vực được khảo sát ở Vịnh Nha Trang vào năm 2015, chỉ có 6 địa điểm ghi nhận có sự phân bố của thảm cỏ biển, với tổng diện tích 52,4 ha, chủ yếu tập trung ở Đầm Tre, Sông Lô và Hòn Chồng. Ở Con Sẻ Tre, Hòn Một và Hòn Miếu thảm cỏ biển phân bố với số lượng khá ít. Các loài cỏ biển phổ biến ở khu vực này là cỏ xoan (Halophila ovalis), cỏ kim biển (Halodule pinifolia), cỏ vích (Thalassia hemprichii) và cỏ lá dừa (Enhalus acoroides).
Theo Nguyễn Tác An và cộng sự, thành phần loài thực vật phù du trong Vịnh Nha Trang phong phú với hơn 200 taxon. Trong đó, tảo silic chiếm ưu thế với 116 loài. Các loài tảo có kích thước nhỏ, tốc độ phân chia lớn chủ yếu phát triển mạnh vào tháng 5 và tháng 6; trong khi các loài tảo silic có kích thước trung bình lại có xu hướng phát triển vào mùa mưa, giai đoạn từ tháng 11 đến tháng 12. Số lượng thực vật phù du trung bình của Vịnh Nha Trang dao động trong khoảng từ 17–315 nghìn tế bào/lít, với sinh khối trung bình là 37–1.200 mg/m³.
Hoạt động kinh tế
Khai thác và nuôi trồng thủy sản
Khai thác thủy sản
nhỏ|phải|Những chiếc tàu đánh cá trên Vịnh Nha Trang Theo Nguyễn Văn Long và các cộng sự tại Viện Hải dương học Nha Trang, có 10 loại nghề khai thác hải sản chính trong Vịnh Nha Trang, gồm câu bủa, câu mực, lặn, lờ, lồng mực, lưới ba màng, lưới giũ, mành tôm, mành chông và xăm tôm. Thời gian khai thác diễn ra quanh năm, chia làm hai vụ chính. Các nghề câu mực, lặn, lồng mực, lưới ba màng, mành chông hoạt động mạnh vào giai đoạn từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch, còn các nghề như câu bủa, lờ, lưới giũ, mành tôm và xăm tôm thì thường phổ biến từ tháng 10 đến tháng 2 âm lịch. Nguồn lợi khai thác tương đối đa dạng và khác nhau theo từng loại nghề, trong đó đa dạng nhất là các loài thân mềm. Các nghề khai thác con giống trong Vịnh Nha Trang chủ yếu tập trung vào loài tôm hùm giống.
Sản lượng khai thác hải sản trong năm 2014 tại khu vực Vịnh Nha Trang là 651,3 tấn, tương ứng với doanh thu 32,67 tỷ đồng. Trong đó, khai thác trong các rạn san hô đạt 327,4 tấn và 11,11 tỷ đồng, khai thác ngoài rạn san hô đạt 323,9 tấn và 21,56 tỷ đồng. Cá là nguồn lợi khai thác quan trọng nhất trên rạn, đặc biệt là cá dìa và cá giò (sản lượng đạt 137,6 tấn, tương ứng doanh thu 4,72 tỷ đồng). Bên ngoài rạn san hô, mực ống là nguồn lợi khai thác quan trọng nhất với sản lượng 47,3 tấn và doanh thu 7,8 tỷ đồng. Việc khai thác tôm hùm giống đạt sản lượng 212.000 con/năm, tương ứng với doanh thu 32,34 tỷ đồng. Xét theo các loại ngành nghề tham gia khai thác thì nghề lặn có vai trò quan trọng nhất với sản lượng khai thác là 324,8 tấn và doanh thu hơn 15 tỷ đồng.
Tính đến năm 2019, Vịnh Nha Trang có 156 bè và 4.076 ô nuôi thủy sản, chủ yếu là tôm hùm xanh và cá, tập trung tại Trí Nguyên và Bích Đầm. Tính đến hết tháng 10, sản lượng nuôi trồng thủy sản trên vịnh là 292 tấn, đạt 70% chỉ tiêu trong năm. Cũng trong năm này, chính quyền thành phố Nha Trang đã quyết định phê duyệt "Đồ án quy hoạch chi tiết vùng nuôi trồng thủy sản lồng bè trên Vịnh Nha Trang đến năm 2025 và định hướng đến năm 2035". Theo quy hoạch, Vịnh Nha Trang sẽ được chia làm 3 vùng nuôi trồng thủy sản chính: vùng mặt nước Hòn Miễu (), vùng mặt nước Bích Đầm () và vùng mặt nước giao giữa đảo Bích Đầm và Đầm Bấy ().
Du lịch
Vịnh Nha Trang được đánh giá là có tiềm năng to lớn cho phát triển du lịch biển. Các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội với mục đích khai thác khu vực này đều ưu tiên hướng tới du lịch. Theo thống kê của Sở Du lịch tỉnh Khánh Hòa, mỗi năm, khu vực này có khoảng 5 triệu du khách trong và ngoài nước đến tham quan, nghỉ dưỡng. Năm 2003, tại hội nghị lần thứ hai của Câu lạc bộ những vịnh đẹp nhất thế giới tổ chức ở Canada, Vịnh Nha Trang đã được kết nạp làm thành viên thứ 29 của câu lạc bộ, qua đó trở thành thành viên thứ hai của châu Á (sau Vịnh Hạ Long) lọt vào danh sách này. Đến ngày 25 tháng 3 năm 2005, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin Phạm Quang Nghị đã ra quyết định xếp hạng Vịnh Nha Trang là di tích quốc gia.
Một trong những thế mạnh du lịch của Vịnh Nha Trang là sự đa dạng của hệ thống các đảo và cảnh quan của chúng. Hòn Mun là nơi khách du lịch có thể trải nghiệm dịch vụ lặn biển và khám phá hệ sinh thái của các rạn san hô dưới nước. Cùng với Hòn Rơm, đây là hai bãi lặn chính của khu vực này. Trong khi đó, Hòn Nội, nơi có bãi tắm đôi nổi tiếng tạo thành từ sự phân chia của bờ cát, được cho là bãi tắm đôi duy nhất ở Việt Nam. Đây cũng là nơi diễn ra lễ giỗ Tổ nghề Yến sào được tổ chức thường niên tại Khánh Hòa. Trên đảo Hòn Miễu là Thủy cung Trí Nguyên (nay là khu du lịch Hòn Sỏi), được thành lập từ năm 1971 và làng chài Trí Nguyên, cũng là một địa điểm du lịch phổ biến trong khu vực. Ngoài ra, nhóm danh thắng được xếp hạng là di tích quốc gia bao gồm Hòn Chồng, Hòn Đỏ và Hội quán Vịnh Nha Trang cũng là nơi thu hút khách du lịch.
Nằm dọc theo bờ biển Nha Trang là bãi biển thành phố, có chiều dài từ , kéo dài từ phía nam sông Cái Nha Trang đến Cầu Đá. Năm 2019, tạp chí Forbes đã bình chọn bãi biển Nha Trang là một trong mười bãi biển đẹp nhất Việt Nam. Bên cạnh đó, Vịnh Nha Trang còn là nơi đặt tuyến cáp treo nối thành phố Nha Trang với đảo Hòn Tre, từng được đánh giá là tuyến cáp treo vượt biển dài nhất thế giới. Kỷ lục này sau đó đã bị phá vỡ bởi tuyến cáp treo Hòn Thơm, Phú Quốc vào năm 2018. Bên bờ Vịnh Nha Trang còn có vòng quay Vinpearl Sky Wheel, thiết lập kỉ lục Việt Nam cho vòng quay có kích thước lớn nhất và lọt vào danh sách 10 vòng quay cao nhất thế giới. Chính quyền thành phố Nha Trang cũng tiến hành lập quy hoạch phân khu các đảo Hòn Một, Hòn Tre với định hướng xây dựng các đảo này thành trung tâm đô thị, hệ sinh thái tiêu chuẩn quốc tế phục vụ cho mục đích du lịch trên cơ sở bảo tồn và phát huy thế mạnh về môi trường tự nhiên.
Vấn đề môi trường và xã hội
Chất lượng nước
Năm 1997, Lê Lan Hương và cộng sự đã tiến hành những nghiên cứu đầu tiên về mức độ nhiễm bẩn coliform tại Vịnh Nha Trang. Kết quả cho thấy, hầu như toàn bộ khu vực đều nhiễm bẩn coliform ở các mức độ khác nhau. Trong đó, cửa sông Cái là nơi bị nhiễm bẩn thường xuyên trong năm và mật độ coliform luôn ở mức cao (trên 10.000 tế bào/100 ml). Kết quả quan trắc môi trường ở Vịnh Nha Trang giai đoạn 2000–2011 cho thấy hầu hết các thông số môi trường như pH, chất hữu cơ, các muối dinh dưỡng và các kim loại nặng luôn nằm trong giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn hiện hành. Cụ thể, hàm lượng nhu cầu oxy hóa học (COD) tăng dần trong thời gian từ năm 2000–2008, sau đó giảm dần. Hàm lượng BOD 5 ngày (BOD5) đạt giá trị lớn nhất vào năm 2002, sau đó giảm dần đến năm 2007 và tăng nhẹ trở lại vào năm 2009. Trong khi đó, hàm lượng oxy hòa tan (DO) ít biến động trong suốt thời gian quan trắc. Hàm lượng muối PO4-P có xu hướng tăng dần, chứng tỏ những hoạt động dân sinh và du lịch đã ảnh hưởng đến chất lượng nước khu vực. Từ năm 2000–2008, lượng hydrocarbon quan sát có giá trị tăng dần theo thời gian và đạt đỉnh vào năm 2008 sau đó giảm dần. Mật độ coliform đạt giá trị lớn nhất vào năm 2003, tuy nhiên sau đó đã giảm dần và đạt giá trị thấp vào những năm 2008 và 2010. Các kim loại nặng Pb và Cu có xu hướng giảm trong giai đoạn 2000–2008 và đạt giá trị cao nhất vào năm 2011. Tương tự, hàm lượng Zn cũng ổn định trong giai đoạn này, nhưng đến năm 2009 thì rồi sau đó giảm dần.
Theo đánh giá của Phạm Thị Kha và các đồng sự tại Viện Tài nguyên và Môi trường biển thực hiện bằng cách đo hệ số tai biến (RQ) thông qua sử dụng tiêu chuẩn QCVN 10:2015/BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường và tiêu chuẩn chất lượng nước biển AMSAT 2008 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á cho vùng nước ven bờ, trong giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2020 chất lượng môi trường nước trong Vịnh Nha Trang khá tốt khi có hàm lượng oxy hòa tan phù hợp cho các hoạt động nuôi trồng thủy sản và thích hợp với đời sống của các loài thủy sinh. Các chất hữu cơ và dinh dường hòa tan đều nằm trong giới hạn cho phép. Hàm lượng dầu và cyanide, tuy có sự gia tăng dần trong giai đoạn này nhưng đều nằm ở mức thấp và trong giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn hiện hành. Tuy nhiên, hàm lượng nitrat (N-NO4-) được cho là vượt giới hạn theo tiêu chuẩn của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, khi cao hơn mức cho phép từ 1,4 đến 2 lần. Theo Lê Thị Vinh và đồng sự, có hai yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng môi trường tại các rạn san hô ở Vịnh Nha Trang. trong đó, yếu tố tự nhiên là quá trình luân chuyển của nguồn vật chất chảy vào từ các con sông trong khu vực; còn yếu tố kinh tế, xã hội bao gồm nuôi trồng thủy sản, du lịch, xả thải, khai thác hủy diệt và nạo vét hoặc đổ vật liệu nạo vét vào biển.
Suy giảm hệ sinh thái rạn san hô
Theo tính toán, từ năm 1994 đến năm 2005, độ phủ san hô trung bình ở Vịnh Nha Trang đã giảm đi 31,2%, tương ứng với độ phủ trung bình vào năm 2005 là 21,1 ± 19,6%. Theo Võ Sĩ Tuấn, độ phủ san hô cứng trung bình ở khu vực vào năm 1994 là khoảng 30% và hầu hết các rạn san hô trong khu vực đều có độ phủ trên 20%. Tuy nhiên các rạn san hô ở đây đã suy giảm mạnh trong giai đoạn 1994–2002.
Trong giai đoạn 2002–2007, giá trị độ phủ trung bình của rạn san hô cứng ở Vịnh Nha Trang là 23,1%, tương ứng trong hai năm 2009 và 2010 lần lượt là 21,8 và 18,5%. Độ phủ san hô giữa các vùng được bảo vệ nghiêm ngặt xung quanh Hòn Mun và vùng đệm tại khu bảo tồn có sự khác biệt lớn, cụ thể, vùng bảo vệ nghiêm ngặt có độ phủ trung bình gấp đôi vùng đệm. Một số rạn có mức độ suy giảm độ phủ khá lớn trong giai đoạn này. Tại Hòn Vung, độ phủ giảm từ từ 25,6% xuống còn 3,2%. Một số đảo như Hòn Miếu, Hòn Chồng và Hòn Rùa có độ phủ lần lượt là 3,8; 8,5 và 6,25% vào năm 2009. Tổng diện tích rạn san hô vào năm 2015 là , giảm so với số liệu thăm dò vào năm 2002 là .
Theo tiến sĩ Hoàng Xuân Bền, có nhiều nguyên nhân gây ra việc suy giảm độ phủ và diện tích rạn san hô ở Vịnh Nha Trang. Trong đó, có một số nguyên nhân chủ yếu, bao gồm việc khai thác hủy diệt bằng chất nổ, chất độc trong quá khứ; các yếu tố môi trường như san hô bị bệnh, bùng nổ sao biển gai; các hoạt động san lấp, lấn biển, hoạt động du lịch; hiện tượng tẩy trắng san hô cùng tác động của yếu tố thiên tai như bão.
Phương hướng bảo tồn
Ngày 8 tháng 6 năm 2001, hội nghị triển khai dự án thí điểm khu bảo tồn biển đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức tại Nha Trang, với mục tiêu "bảo vệ các hệ sinh thái rạn san hô, rừng ngập mặn và cỏ biển tốt nhất còn lại của Việt Nam". Dưới sự hợp tác của Quỹ Môi trường Toàn cầu của Ngân hàng Thế giới, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế cùng Cơ quan Phát triển Quốc tế Đan Mạch, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập khu bảo tồn biển trên đảo Hòn Mun. Ngày 18 tháng 7 năm 2001, Ban quản lý Khu bảo tồn biển Hòn Mun được thành lập, theo sau đó là quy chế quản lý tạm thời do Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa ban hành ngày 11 tháng 3 năm 2002. Đến ngày 12 tháng 3 năm 2004, Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa quyết định đổi tên khu bảo tồn này thành Khu bảo tồn biển Vịnh Nha Trang, với diện tích trên , gồm 9 đảo và vùng nước xung quanh. Ngày 11 tháng 9 năm 2012, chính quyền tỉnh thành lập Ban quản lý Vịnh Nha Trang, trên cơ sở hợp nhất các ban quản lý thuộc Khu bảo tồn biển Vịnh Nha Trang, Bến tàu du lịch Cầu Đá và bộ phận cứu hộ nhân đạo trên biển của Đội Thanh niên xung kích Nha Trang. Nhiệm vụ của tổ chức này là hỗ trợ Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang quản lý việc khai thác các giá trị của Vịnh Nha Trang trên cơ sở bảo vệ, bảo tồn danh lam thắng cảnh và hệ đa dạng sinh học trên Vịnh Nha Trang.
Ngày 8 tháng 9 năm 2011, Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa ban hành quyết định số 2466/QĐ-UBND về việc "phê duyệt đồ án quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Vịnh Nha Trang". Theo đó, việc đầu tư, quy hoạch phải gắn liền với chiến lược phát triển của toàn thành phố Nha Trang, đảm bảo phát triển lâu dài và bền vững, gắn với lợi ích cộng đồng. Đồ án cũng thiết lập các phân khu chức năng, trong đó phần phía Đông của vịnh được chỉ định sử dụng cho mục đích bảo tồn.