✨Văn Tú

Văn Tú

Văn Tú (chữ Hán: 文绣, 20 tháng 12, năm 1909 – 17 tháng 9, năm 1953), Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị, biểu tự Huệ Tâm (蕙心), tự hiệu Ái Liên (爱莲), thường được biết đến với tên gọi Thục phi Văn Tú (淑妃文绣), là một phi tần của Tuyên Thống Đế Phổ Nghi, vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Thanh cũng như chế độ quân chủ trong lịch sử Trung Quốc.

Bà xuất thân dòng dõi lâu đời, nhưng gia thế lại bần hàn. Năm 1922, bà cùng Uyển Dung được chọn làm hậu phi của Tuyên Thống Đế Phổ Nghi, vào lúc này triều đình Mãn Thanh đã mất thực quyền, Hoàng đế đã thoái vị, nhưng hôn lễ vẫn diễn ra đúng với quy chuẩn của một hôn lễ Hoàng thất. Sau khi cùng Phổ Nghi rời khỏi Tử Cấm Thành, bà cùng đến ở Thiên Tân.

Năm 1931, bà nổi tiếng với danh hiệu "Hoàng phi cách mạng" vì trở thành phi tần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa chủ động ly hôn Hoàng đế, sau khi phải chịu một quãng thời gian bị đối xử uất ức do bà chỉ là một phi tần. Sau khi ly hôn, bà tái hôn với Lưu Chấn Đông, trở thành một giáo viên bình thường.

Tuy đã ly hôn với Hoàng đế, Hoàng thất nhà Thanh về sau cũng không còn công nhận bà với tư cách một thành viên trong Hoàng tộc, nhưng đương thời và cả hậu nhân về sau đều thường gọi bà là Mạt đại Hoàng phi (末代皇妃).

Thân thế

Dòng dõi cao môn

thumb|Cận dung Thục phi Văn Tú trong ngày đại hôn. Thục phi Văn Tú sinh ngày 8 tháng 11 (âm lịch), năm Tuyên Thống nguyên niên (1909), xuất thân từ gia tộc Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị (鄂爾德特氏) của Mông Cổ Tương Hoàng kỳ, thuộc về Thượng Tam kỳ. Đương thời có câu về Văn Tú rằng "Dòng dõi tuy cao, nhưng gia cảnh nghèo khó", gia tộc của bà xuất thân nếu so với Hoàng hậu Uyển Dung thì cao quý hơn rất nhiều.

Dòng họ Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị, bắt đầu phát tích thời Càn Long, khai thủy bởi Hòa Anh (和瑛). Năm Càn Long thứ 36, Hòa Anh đậu Tiến sĩ, nhiều lần đảm nhiệm Chủ sự, Án sát, Bố chính sứ, Thị lang, Tuần phủ, Thượng thư, cuối cùng lấy Thượng thư bộ Binh mà thụ chức Quân cơ đại thần (军机大臣), Lãnh Thị vệ Nội đại thần (领侍卫内大臣), Thượng thư phòng Tổng Am Đạt (上书房总谙达), sau khi qua đời được ban thụy hiệu là Giản Cần (简勤). Con trai của Hòa Anh là Bích Xương (壁昌), làm đến Tổng đốc Lưỡng Giang; con trai thứ nhất của Bích Xương là Hằng Phúc (恒福) sĩ đến Tổng đốc Trực Lệ; con trai thứ là Đồng Phúc (同福), tuy đương còn sống chỉ bị chờ tuyển Lang trung, nhưng con trai là Tích Trân (锡珍) vào năm Đồng Trị thứ 7 thì thi trúng Tiến sĩ, làm quan đạt đến Thượng thư bộ Lại. Tích Trân chính là tổ phụ của bà.

Như vậy gia tộc của Văn Tú 4 đời làm quan to, gia tộc vinh hiển, để lại cho con cháu không ít sản nghiệp. Cũng vì gia thế vinh hiển, Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị bắt đầu tiến vào vòng xoay liên hôn với Hoàng thất Vương phủ. Hai con gái của Hằng Phúc gả cho dòng Tiểu tông của Túc vương phủ, trong đó có một vị chính là văn nhân nổi danh Thịnh Dục (盛昱), là tằng tôn của Túc Cung Thân vương Vĩnh Tích. Con gái của Đồng Phúc gả vào Vinh vương phủ, lấy Dĩ cách Trấn quốc công Phổ Mi (溥楣); còn con gái Tích Trân, cũng là tổ cô mẫu của Văn Tú, được gả vào Trang vương phủ, lấy Bất nhập Bát phân Phụ quốc công Phổ Cương (溥纲). Thuận tiện nhắc tới, Phổ Cương là con trai trưởng của Trang Thân vương Tái Huân (载勋), nguyên bản tương đương với Trang vương phủ Thế tử, sau do sự kiện Nghĩa Hòa Đoàn mà Tái Huân bị tước vương vị, Phổ Cương do đó cũng không kịp thế tước. Văn Tú cũng có một vị đường tỷ, con gái của đường bá phụ Đoan Kính (端敬), trong đợt Bát kỳ tuyển tú được chỉ định gả vào Hòa vương phủ, lấy Trấn quốc công Dục Chương (毓璋).

Các vị cô mẫu này của Văn Tú, khi gả đến Vương phủ đều có tiếng văn chương thi từ rất tốt, tranh chữ cũng bất phàm, ta có thể liên hệ hình dung ra môi trường giáo dục rất chặt chẽ trong gia đình của Văn Tú.

Gia cảnh cùng khổ

Nhưng gia đình này, sau khi Tích Truân qua đời cũng dần dần suy tàn do vấn đề kinh tế.

Đương khi còn sống, Tích Trân có năm con trai, đa phần chỉ làm đến quan liêu tầm trung, không đạt đến quan lớn. Cha bà là Đoan Cung (端恭), chỉ từng nhậm Nội vụ phủ Chủ sự, tựa hồ là chức quan cao nhất trong các anh em trong gia tộc. Khi đó việc liên hôn với Vương phủ cũng thất thoát khá nhiều của cải, bên cạnh đó liên tiếp Tích Trân qua đời, Đoan Cung cũng mất sớm, gia tộc này ngốn rất nhiều chi phí chia đều cho các phòng, hệ mà lại không có nguồn thu vào cao. Mẹ Văn Tú là Tưởng thị (蒋氏), là người Hán, kế thất của Đoan Cung, có hai người con gái với ông là Văn Tú và một cô con gái nhỏ hơn tên gọi Văn San (文珊). Sau khi Đoan Cung mắc bệnh qua đời, mẹ Văn Tú phải một mình nuôi hai chị em bà và con gái của vợ cả Đoan Cung cũng mất từ sớm.

Ban đầu cuộc sống khó khăn, bốn mẹ con Văn Tú thường nương nhờ nhà chú bà là Hoa Kham (华堪), em trai Đoan Cung, lúc bấy giờ đang là Lại bộ Thượng thư. Tuy nhiên ngày 12 tháng 3 năm 1912, Long Dụ Thái hậu ký chiếu thư thoái vị, nhà Thanh chính thức sụp đổ, Hoa Kham bị mất chức vị, không còn quan chức và bổng lộc từ triều đình. Gia tộc Ngạch Nhĩ Đức Đắc bắt đầu trở nên sa sút, Hoa Kham không thể đảm đương lo cho bốn mẹ con bà, đành chia tài sản cho mọi người rồi mỗi người mỗi ngả. Tình thế có thể nói là đã khó càng khó. Trong cuộc phân chia tài sản, mẹ con Văn Tú chỉ được phân vài món đồ cũ và một số tiền rất ít ỏi. Họ chuyển đến thuê nhà ở phố Hoa Thị ở Bắc Kinh. Tại đây, Tưởng thị - mẹ Văn Tú làm đủ nghề để lo tiền ăn học cho các con gái.

Đầu tháng 9 năm 1916, Văn Tú tròn 8 tuổi, được mẹ gửi tới trường tiểu học Hoa Thị (花市). Từ khi bắt đầu đi học, Văn Tú đổi tên thành Phó Ngọc Phương (傅玉芳). Ở trường, các môn quốc văn, toán học, tự nhiên, vẽ tranh cho tới âm nhạc Ngọc Phương đều học rất giỏi. Ngọc Phương hiếu thảo và thương yêu mẹ, ngoài thời gian ở trường, bà đều giúp mẹ làm việc nhà, thêu tranh để bán lấy tiền đóng học phí. Vì vậy, vào năm Ngọc Phương 13 tuổi đã chín chắn như một cô gái trưởng thành, rất được các lão sư yêu thích.

Đại Thanh Hoàng phi

Dự tuyển tranh luận

Năm 1921, Tuyên Thống Hoàng đế Phổ Nghi tròn 16 tuổi. Tuy là một người đã thoái vị, nhưng dựa theo điều khoản thoái vị chiếu thư đưa ra, Chính phủ Trung Hoa dân quốc khi ấy vẫn rất tôn trọng Hoàng tộc nhà Thanh, giữ lại danh hiệu Hoàng đế, lấy lễ như khi tiếp quân chủ ngoại quốc mà cử hành, do vậy về tính danh nghĩa của Hoàng thất Mãn Thanh vẫn còn tồn tại trên phương diện ngoại giao.

Khi đó, Hoàng thất nhà Thanh cùng Hoàng đế vẫn ở trong Tử Cấm Thành, đã từng được Tổng thống Từ Thế Xương đề nghị đem con gái bản thân ông ta gả cho vị Hoàng đế trẻ tuổi. Hoàng thất kiên quyết từ chối, nhưng rồi cũng vì thế mà các thành viên trong Hoàng tộc bắt đầu bàn bạc và quyết định phải chọn cho Phổ Nghi một vị Hoàng hậu. Chú của Văn Tú là Hoa Kham cho rằng đây là cơ hội giúp dòng họ Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị lấy lại vinh quang, bèn dùng bức ảnh của Văn Tú, lấy lại tên cũ của bà rồi gửi vào Nội vụ phủ trong Tử Cấm Thành tham gia ứng tuyển. Tứ đại Thái phi và quan thần trong triều chọn lọc rồi gửi những bức ảnh của các mỹ nữ xuất sắc nhất đến Hoàng đế.

Từ năm 1921, lựa chọn đã chính thức bắt đầu quá trình. Rất nhiều người bị tuyển, rồi đào thải, cuối cùng còn lại 4 người: con gái của Vinh Nguyên là Quách Bố La thị, con gái của Đoan Cung là Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị, con gái Hành Vĩnh là Hoàn Nhan thị, và cuối cùng là con gái của Dương Thương Trát Bố là Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, tất cả đều xuất thân quý tộc, không gia đình giàu có thì cũng là dòng dõi cao quý.

Cuối cùng kết quả chúng ta đều biết, Quách Bố La thị là Hậu, Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị là Phi. Dựa theo cách nói của Phổ Nghi, quá trình lựa chọn như sau:

Quá trình này, theo cách nói của đám người Phổ Giai (溥佳) tường thuật lại, cả Quách Bố La thị cùng Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị đều biểu thị sự chống đối ngầm giữa các thế lực lúc bấy giờ. Vào năm 1922, khi diễn ra quá trình tuyển chọn, các Thái phi đã ngấm ngầm kình cựa nhau, Một là góa phụ của Thanh Mục Tông, tức là Kính Ý Thái phi Hách Xá Lý thị, một bên kia là Đoan Khang Thái phi Tha Tha Lạp thị, góa phụ của Thanh Đức Tông. Căn cứ cách nói của Phổ Giai, Uyển Dung có sự hỗ trợ từ Đoan Khang Thái phi cùng Tái Đào (载涛), còn Văn Tú có sự ủng hộ từ Kính Ý Thái phi cùng Tái Tuân (载洵). Nơi này cũng có thể nhìn ra, hai người đều có tương đương bối cảnh, mỗi người đều có một vị Thái phi cùng một vị Hoàng thúc duy trì thế lực. Việc chọn Hậu-Phi này trên thực tế thể hiện mâu thuẫn giữa Thái phi cùng với phái Tông thất.

Bên cạnh đó, việc Văn Tú được Tái Tuân ủng hộ, cơ bản chỉ vì hai người có quan hệ thông gia. Đích Phúc tấn của Tái Tuân, Bích Lộ thị (碧鲁氏), là cháu gái thứ hai của Trường Lâm (长霖); mà tổ mẫu của Văn Tú, tức là phu nhân của Tích Truân, là người con gái thứ ba của Trường Lâm. Do đó, cha vợ của Tái Tuân, là ông cụ ngoại của Văn Tú, mà Văn Tú lại là cháu gái của cô cô của Tái Tuân phu nhân.

Phổ Nghi nghe Đoan Khang Hoàng thái phi lập Uyển Dung làm Hoàng hậu, ban Trữ Tú cung. Còn Văn Tú thụ phong làm Thục phi (淑妃), ban Trường Xuân cung.

Cuộc sống trong Tử Cấm Thành

thumb|Văn Tú trong trang phục ngày thường khi ở Tử Cấm Thành. Năm 1922, ngày 10 tháng 3 (dương lịch), Tuyên Thống Đế tuyên bố công văn:「"Nghị tuyển, chọn con gái của Khinh xa Đô úy Vinh Nguyên là Quách Giai thị lập làm Hoàng hậu. Lại chọn con gái của Đoan Cung là Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị, phong làm Thục phi"」.

Sau khi Văn Tú trở thành Thục phi, Phổ Nghi sai Nội vụ phủ chuẩn bị một đại viện ở bên trong Địa An môn (地安门), chuyển mẹ của Văn Tú là Tưởng thị đến trú tại đó. Gia cảnh sinh hoạt khốn khó khi xưa của gia đình bà cũng được cải thiện. Khi được xác nhận tuyển làm Phi, Văn Tú không được đến trường nữa, càng không được dùng cái tên Phó Ngọc Phương, mà phải cùng ngũ thúc Hoa Kham tại nhà học hết quy củ của triều đình, cũng như các sách về nữ nhân hành xử như Nữ nhi kinh (女儿经).

Vào lúc đó, chính phủ Trung Hoa dân quốc cho Thanh thất ưu đãi điều kiện là: 「“Đại Thanh Hoàng đế sau khi từ vị, tôn hào vẫn còn không phế, Trung Hoa dân quốc lấy các ngoại quốc quân chủ lễ nghi để đối đãi với Thanh thất”」. Vì thế, hôn lễ của Phổ Nghi vẫn là hoàn toàn rập khuôn Hoàng đế đại hôn lễ nghi, dân quốc chính phủ đặc chuẩn Hoàng hậu “Phượng dư” (凤舆) từ Đông Hoa môn nâng tiến Tử Cấm Thành. Sau hơn nửa năm chuẩn bị kĩ lưỡng. Ngày 21 tháng 10, diễn ra lễ Nạp thái, sang ngày 12 tháng 11, diễn ra Thân chinh đại lễ. Ngày 29 tháng 11, tiến hành sách phong Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị làm Thục phi. Văn Tú được đưa vào hậu cung ngay hôm sau khi sắc phong, tức ngày 30 tháng 11, trước khi Uyển Dung được tuyên bố sách phong làm Hoàng hậu vì Văn Tú phải chuẩn bị mọi nghi lễ và trang phục để đón tiếp đại hôn của Hoàng hậu diễn ra vào ngày 1 tháng 12 cùng năm. Đó là một thông lệ của phi tần nhà Thanh đối với Hoàng hậu.

Ngay hôm ấy, ngày 30 tháng 11, Văn Tú đến Dưỡng Tâm điện bái kiến Hoàng đế, nhưng Hoàng đế không nhìn đến bà, chỉ lạnh lùng nói:「"Đi xuống nghỉ tạm đi!"」, đêm đó Hoàng đế cũng không muốn đến phòng của Thục phi. Sau này khi Uyển Dung nhập cung, cũng không cùng Hoàng hậu ở chung phòng, tất thảy đều độc thân ngụ trú Dưỡng Tâm điện. Từ sau đó, Văn Tú cũng chưa từng được Phổ Nghi ân sủng, Hoàng đế tựa hồ cũng không thích bà nên chưa từng triệu hạnh. Bà trú ngụ tại Trường Xuân cung ở Tây lục cung. Mỗi sáng, sau khi thức dậy chải đầu, Văn Tú chỉ có thể ở ngoài cửa Dưỡng Tâm điện vấn an Hoàng đế, sau đó lui đến chào hỏi Tứ đại Thái phi cùng Hoàng hậu Uyển Dung, rồi lủi thủi về lại Trường Xuân cung. Đến bữa, Văn Tú không được ăn cùng Hoàng đế và Hoàng hậu mà phải ăn một mình.

Văn Tú yêu thích văn học, thời gian ở Tử Cấm Thành, bà hầu hết dành thời gian đọc sách một mình, hoặc dạy chữ cho các cung nữ cùng ở tại Trường Xuân cung. Phổ Nghi khi cho phép Uyển Dung có giáo viên học riêng, cũng đã cho Văn Tú một giáo viên, bà đối với việc học rất chú tâm và thích thú. Đối với các vị Thái phi và cung nhân, Văn Tú được đánh giá cao vì sự lịch sự nhã nhặn rất đúng quy cách, tuy nhiên điều này cũng không khiến Phổ Nghi yêu mến Văn Tú hơn chút nào. Uyển Dung xem thường Văn Tú ra mặt, mua sắm nhiều trang phục cao cấp, giày cao gót mắc tiền,... Lúc đó, tình hình kinh tế của triều đình không còn được như trước, Uyển Dung mang thân phận Hoàng hậu ra nói Văn Tú chỉ là phi, nếu có muốn tiết kiệm có thể cắt giảm chi tiêu của Văn Tú chứ không thể hạn chế chi tiêu của mình. Phổ Nghi không bênh vực Văn Tú mà còn đồng tình với Uyển Dung, cho rằng phận làm thiếp phải biết an phận thủ thường. Văn Tú thất vọng, nảy ra ý định rời khỏi gia đình cựu hoàng thất.

Ngày 25 tháng 8, năm 1931, em gái Văn San của Văn Tú đến thăm, Văn Tú dự theo kế hoạch, nói với Phổ Nghi rằng muốn ra ngoài giải sầu. Phổ Nghi miễn cưỡng cho phép ra ngoài chơi, nhưng lại sai một thái giám đi theo giám sát. Khi đến một quán cơm bình dân, Văn Tú lệnh cho thái giám trở về kèm theo lời nhắn với Phổ Nghi rằng: “Văn Tú sẽ lên tòa kiện Hoàng thượng, quyết định ly hôn với ông ta”. Phổ Nghi nghe tin lệnh cho thái giám quay lại bắt Văn Tú nhưng lúc này, Văn Tú và Văn San đã đi khỏi, đến trú tại một nhà quá phụ họ Trương rất thương cảm với tình cảnh của bà. Sau đó, dưới sự giúp sức của Ngọc Phần, Văn Tú đã thuê ba vị luật sư nộp đơn lên tòa xin ly hôn với Phổ Nghi, lời cáo trạng viết rằng:"Khống cáo Phổ Nghi ngược đãi Văn Tú, không thể chịu đựng nổi. Phổ Nghi sinh lý lại có bệnh, ở qua 9 năm chưa từng ân ái. Quyết ý ly hôn, yêu cầu chi phí cá nhân hằng ngày cần được hỗ trợ, dưỡng phí 50 vạn nguyên".

Đối với khống cáo của Văn Tú, Phổ Nghi biểu tình cực kỳ sợ hãi, vì không chỉ làm mất thể diện của bản thân, mà còn bôi nhọ hoàng thất Mãn Thanh. Lúc đó Phổ Nghi được sự trợ giúp của Nhật Bản, hi vọng một ngày trở lại Hoàng vị, nhưng vào lúc này trang báo tràn lan nào là Hoàng phi cách mạng, tin tức về việc ly hôn của Văn Tú cực kỳ được giới báo chí chú ý, cơ hồ khuấy động toàn bộ giới truyền thông lúc đó. Tình cảnh này khiến Phổ Nghi cực kỳ căng thẳng cùng xấu hổ.

Ngày 22 tháng 10, sau nhiều ngày đàm phán, 2 vị luật sư đại diện của Phổ Nghi và 3 vị luật sư của Văn Tú cũng quyết định những điều khoản cho việc ly hôn. Phổ Nghi và Văn Tú song song đồng ý, cùng ký giấy thỏa thuận ly hôn, có 3 điều:

  • Một, sau khi ly hôn, Phổ Nghi cung cấp cho Văn Tú sinh hoạt phí 5.5 vạn nguyên.
  • Hai, cho phép Văn Tú mang đi toàn bộ trang phục, vật dụng thường ngày.
  • Ba, sau khi Văn Tú trở về nhà mẹ đẻ, không được tái hôn, tránh liên lụy danh dự của Phổ Nghi.

Để giữ thể diện cho một Thiên tử, ngay sau ngày ly dị, Phổ Nghi ra một "chỉ dụ" với nội dung phế bỏ Thục phi Văn Tú làm thứ nhân.

Sau khi ly hôn, Văn Tú về Bắc Kinh, những mong được đoàn tụ cùng gia đình. Tuy nhiên, bà mới biết rằng mẹ mình đã qua đời, cô chị cả cùng cha khác mẹ đã lấy chồng ở xa từ lâu, căn nhà cũ ngày xưa cũng bị người ta bán mất. Tộc huynh của Văn Tú, Văn Khởi (文绮), con trai của người chú thứ hai của Văn Tú, khi biết được sự tình đã rất cảm khái, viết thư chỉ trích bà:"Ta nghe muội viết đơn ly dị với Tốn Đế, sự việc rùm beng khắp nơi. Cái việc thế này, làm sao có thể được? Nhà ta nhờ ân trạch Thanh thất ngót 200 năm, tổ tông nhà chúng ta 4 đời nhất phẩm quan viên. Ta từng hỏi qua Tốn Đế những việc ấy, cũng chẳng tính là ngược đãi, mà nếu thật là vậy, sao muội không nhẫn nhịn, dẫu có chết cũng là vì báo ân với Thanh thất. Nay lại ra thế này, muội ơi là muội, em quả thật quá hồ đồ, quá vớ vẩn rồi!" (Nguyên văn: 顷闻汝将与逊帝请求离异,不胜骇诧。此等事件,岂我守旧人家所可行者?我家受清室厚恩二百余载,我祖我宗四代官至一品。且漫云逊帝对汝并无虐待之事,即果然虐待,在汝亦应耐死忍受,以报清室之恩。今竟出此,吾妹吾妹,汝实糊涂万分,荒谬万分矣!). Sau đó, Văn Khởi đem nội dung bức thư công bố cho thông cáo báo chí.

Không chịu được sự chỉ trích từ chính Văn Khởi, Văn Tú viết thư đáp lại rằng:

Năm 1932, Văn Tú đổi lại tên là Phó Ngọc Phương, xin vào làm giáo viên tiểu học tại một trường tiểu học ở Bắc Kinh. Đây là công việc đầu tiên sau khi ly hôn với Phổ Nghi, nên tâm tình Văn Tú đặc biệt vui sướng.

Giọng nói trong trẻo, học vấn cao, lại giảng bài rất rõ ràng, vị cô giáo Phó Ngọc Phương này rất được lòng học sinh. Không ngờ chỉ mấy ngày sau, có người phát hiện cô giáo Phó Ngọc Phương này có tên thật Ngạch Nhĩ Đức Đặc Văn Tú, là Mãn Thanh Bát Kỳ thế gia quý tộc, từng là phi tần của Tuyên Thống Đế Phổ Nghi. Tin đồn lan truyền ra ngoài, tức khắc trở thành đề tài nóng bỏng đối với ngôi trường tiểu học mà Văn Tú đang giảng dạy. Báo chí kéo đến phỏng vấn ngày một nhiều, cuộc sống của Văn Tú đảo lộn, đến mức bà phải từ bỏ nghề giảng dạy vào năm 1933, sau đó bà cùng em gái Văn San mua một căn hộ nhỏ tầng trệt sống ẩn dật.

Sau đó, Văn San cũng tái giá, Văn Tú theo học một họa gia cung đình nghề vẽ tranh, với tính cách thông minh cũng như có năng khiếu, Văn Tú cũng dần chuyên tâm với nghề. Lúc này, càng nhiều quan nhân, tiểu thương biết thân phận của Văn Tú, cho rằng bà cũng đang cất giữ rất nhiều của cải Hoàng thất nên liên tiếp đến cầu hôn, hòng chiếm đoạt các tài sản đắt giá đó. Văn Tú thông minh biết rõ, đều khéo léo chối từ.

Những năm 1937, người Nhật Bản uy chiếm Bắc Kinh, tình cảnh của Văn Tú càng khốn khổ. Bà bị các thế lực người Nhật ép cống gia tài, chẳng mấy chốc mà bà phải bán đi căn nhà ọp ẹp còn lại, thuê một căn hộ ở phố lao động, bắt đầu bước vào thời kì gian truân làm đủ thứ nghề tay chân chỉ để kiếm sống, từ ve chai, cu li cho đến rao thuốc lá đầu ngõ, không việc gì mà Văn Tú chưa từng trải qua.

Cuối đời

Năm 1945, cuộc chiến tranh với Nhật Bản kết thúc, Quốc dân đảng thống trị Bắc Kinh.

Được bạn bè giới thiệu, Văn Tú làm nhân viên soát lỗi tại Nhật báo Hoa Bắc. Do làm việc chăm chỉ, lại là một phụ nữ tài hoa nên bà được tổng biên tập báo là Trương Minh Vỹ quý mến, giới thiệu bà với Lưu Chấn Đông (刘振东) - một Thiếu tá trong quân đội Quốc dân đảng. Ông này vốn là người Hà Nam, Trung Quốc, sinh ra trong một gia đình nghèo. Năm 17 tuổi, Chấn Đông nhập ngũ quân đội của Dân quốc, do tác chiến dũng cảm, từ tiểu binh vẫn luôn lên tới Thiếu tá. Ông sinh thời làm người cương trực, tính tình hòa hảo, chưa từng sinh sự gây chuyện, hơn 40 tuổi vẫn chưa thành thân, lúc đó phụ trách nhà kho Trung Nam Hải của quân đội Dân quốc tại Bắc Kinh. Năm 1947, sau nhiều năm tìm hiểu và yêu nhau, Văn Tú tái hôn với Lưu Chấn Đông. Sau đó, gia đình sinh hoạt ân ái, cả đời Văn Tú cực khổ bất hạnh cuối cùng cũng có một gia đình đúng nghĩa.

Năm 1949, nội chiến kết thúc, chính phủ của Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp quản Bắc Kinh. Lúc bấy giờ, chính quyền Đảng cộng sản yêu cầu những người từng có liên quan tới Quốc dân đảng còn ở lại Bắc Kinh phải tới gặp chính quyền để đăng ký. Văn Tú khuyên Lưu Chấn Đông đăng ký. Chính quyền Đảng Cộng sản không bắt giam cũng không xử phạt Lưu Chấn Đông, chỉ tuyên bố ông có lịch sử phản cách mạng rồi giao về cho nhân dân và địa phương giám sát quản chế.

Năm 1951, nhờ có biểu hiện tốt nên Lưu Chấn Đông được bỏ án quản chế đồng thời được phân tới làm công nhân vệ sinh tại khu vực phía Tây của Bắc Kinh. Nhờ có công việc để kiếm tiền, đời sống của Lưu Chấn Đông và Văn Tú cũng được cải thiện, vợ chồng Văn Tú cũng chuyển tới sống ở gần nơi ở của đội vệ sinh.

Năm 1953, Văn Tú đột ngột tái phát bệnh co thắt tim mà qua đời, lúc bà chỉ mới 45 tuổi, cả đời chưa từng sinh nở. Lưu Chấn Đông là người duy nhất ở bên cạnh khi bà lâm chung. Sau đó, bà được an táng vào một ngôi mộ tập thể, bên ngoài An Định môn (安定门), Bắc Kinh.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Án văn tự đầu đời Minh** hay **Ngục văn tự đời Minh** là tên chung dùng để chỉ những vụ án do chữ nghĩa mà ra, ngay sau khi nhà Minh được thành lập ở
Dưới triều nhà Thanh (1644-1911), đã xảy ra hai vụ án lớn có liên quan đến văn tự, làm liên lụy nhiều người, đó là **vụ án Minh Sử** và **vụ án Điềm kiềm ký
Những người đóng góp vào bách khoa toàn thư trực tuyến Wikipedia cấp phép cho nội dung khởi tạo của họ dựa theo giấy phép Creative Commons, cho phép sử dụng lại miễn là có
thumb|right|Di chúc William Shakespeare **Cổ văn tự học** là ngành nghiên cứu phương thức giải mã, đọc và xác định niên đại các văn bản lịch sử.
**Phêrô Nguyễn Văn Tự** sinh năm 1796 tại xã Trực Phú, huyện Trực Ninh (nay là thị trấn Ninh Cường, huyện Trực Ninh), tỉnh Nam Định, thuộc Giáo phận Bùi Chu. Năm 1826 ông Tự
**Từ Văn Tú** là một tướng lĩnh quan trọng của phong trào Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Từ Văn Tú là một nhân vật đóng vai trò quan trọng trong
**Văn Tú** (chữ Hán: 文绣, 20 tháng 12, năm 1909 – 17 tháng 9, năm 1953), Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị, biểu tự **Huệ Tâm** (蕙心), tự hiệu **Ái Liên** (爱莲), thường được biết đến
**Văn tự ngữ tố** (tiếng Anh: _morphographic writing_), còn gọi là **văn tự biểu từ**, **văn tự từ phù** (_logographic writing_), là tập hợp các ký hiệu văn tự mang đặc điểm là một mình
**Hồ Văn Tự** là tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn. ## Hành trạng Hồ Văn Tự là một tướng lĩnh cao cấp của phong trào Tây Sơn. Không rõ ông tham gia phong trào
**Thẩm Văn Tú** (chữ Hán: 沈文秀, 425 – 486), tự **Trọng Viễn**, người Vũ Khang, Ngô Hưng, tướng lĩnh nhà Lưu Tống. Ông có quan hệ họ hàng với danh tướng Thẩm Khánh Chi. ##
**Văn Tử** (chữ Hán: 文子) là thụy hiệu của một số vị vua chư hầu và khanh đại phu thời Xuân Thu Chiến Quốc và những nhân vật quan trọng khác đời sau trong lịch
**Lê Văn Tư** (1931-2021), nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị
right|thumb|Vân Tử **Vân Tử (**tiếng Anh **Yun Zi) **(Giản thể: 云子; Phồn thể:  雲子) là một gấu trúc đực thuộc loài gấu trúc lớn,được sinh ra tại vườn thú San Diego Zoo vào ngày 5 tháng 8 năm
**Hàn Văn Tú** (tiếng Trung giản thể: 韩文秀, bính âm Hán ngữ: _Hán Wén Xiù_, sinh tháng 9 năm 1963, người Hán) là chuyên gia kinh tế, chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân
**Vân Ngoại Vân Tụ** (zh. 雲外雲岫, ja. _Ungai Unshū_, 1242-1324) là Thiền sư Trung Quốc đời Nguyên, thuộc phái Hoằng Trí, tông Tào Động. Sư còn có các tên gọi khác như Trí Môn Vân
**Nguyễn Văn Tư** (sinh năm 1935 – mất ngày 26 tháng 10 năm 1964, bí danh là Thành Ngọc) là một quân nhân người Việt Nam, nguyên quán ở xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ
Phát Triển Kĩ Năng Làm Văn Nói Và Viết văn Tự Sự, Miêu Tả 6 được biên soạn dựa trên nền kiến thức tổng chung của ba bộ sách Cánh diều, Chân trời sáng tạo,
**Phan Văn Từ** (sinh năm 1940) là nhà thơ, nhà báo sinh sống và làm việc tại Nghệ An. Ông từng làm việc tại đài phát thanh truyền hình Nghệ An, nay đã nghỉ hưu.
**Lưu Văn Tú** (, 1633 – 1658), người Diên An, Thiểm Tây, tướng lãnh khởi nghĩa nông dân Đại Tây, con nuôi của thủ lĩnh Trương Hiến Trung. ## Cuộc đời và sự nghiệp Ông
**Bùi Văn Tự** (sinh ngày 31 tháng 10 năm 1992) là một nghệ sĩ, nhà điêu khắc ánh sáng người Việt Nam. Anh là người đầu tiên tại Việt Nam sáng tạo ra nghệ thuật
**Trương Văn Từ** là nữ nghệ sĩ Hồng Kông, cựu nữ nghệ sĩ truyền hình châu Á (ATV), hiện cô là nghệ sĩ hợp đồng của TVB và là nữ nghệ sĩ của Shaw Brothers
Đồ Chơi Người Nhện Trượt Ván, Tự Đứng Dậy Khi Ngã, Quay 360 độ, Có Đèn LED ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT : - Khả năng “pha trò” của người nhện trượt ván luôn gây sự
**Nguyễn Văn Tư** (sinh năm 1936) là chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X nhiệm kì 1997-2002 thuộc đoàn đại biểu Đồng Nai, Chủ tịch
**Văn Tư Minh Vương** (mất 519, trị vì 491–519) là vị quốc vương thứ 21 của Cao Câu Ly. Ông là cháu trai của Trường Thọ Vương (413–490). Mặc dù phụ thân của ông là
thumb|upright=1.25|Quốc vương [[Charles III đọc bài phát biểu từ ngai vàng tại Viện Quý tộc năm 2024 của Vương quốc Anh]] **Diễn văn từ Ngai vàng** (tiếng Anh: **Speech from the Throne**) là nghi lễ
**Hồ Văn Tú** (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Nam Định ở vị trí thủ
**Đài quan sát núi Tử Kim Sơn** () là một đài quan sát thiên văn đặt trên Tử Kim sơn ở Nam Kinh, Trung Quốc. Giám đốc thời gian dài của đài thiên văn (1950-1984)
**Trần Văn Tú** (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1952) là một thẩm phán người Việt Nam. Ông có chức danh Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Ông từng là Thành viên Hội
**Phác Văn Tú** (朴文秀, 박문수, _Pak Munsu_) (1691-1756) là một vị quan nhà Triều Tiên. Ông được Triều Tiên Anh Tổ phong làm _Ám hành ngự sử_ (暗行御史, 암행어사) hay quan giám sát mật của
Chì kẻ mày 2 đầu Vặn tự động tam giác chống nước LCHEAR vẽ đậm và mịn, dễ tán cho đôi mày đều và đẹp long lanh Đặc biệt thiết kế dạng bút kẻ giúp
Chì kẻ mày 2 đầu Vặn tự động tam giác chống nước LCHEAR vẽ đậm và mịn, dễ tán cho đôi mày đều và đẹp long lanh Đặc biệt thiết kế dạng bút kẻ giúp
Chì kẻ mày 2 đầu Vặn tự động tam giác chống nước LCHEAR vẽ đậm và mịn, dễ tán cho đôi mày đều và đẹp long lanh Đặc biệt thiết kế dạng bút kẻ giúp
**Trần Văn Tư** (sinh ngày 15 tháng 9 năm 1958) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Đồng Nai. ## Tiểu sử Ông có quê quán ở xã Long
nhỏ|289x289px|_Khuê Văn Các_ - biểu tượng của Thủ đô [[Hà Nội. Đây là nơi học sinh thường hay chụp ảnh trong những lễ tốt nghiệp]]**Văn Miếu – Quốc Tử Giám** là quần thể di tích
Tượng Pháp Vũ tại [[chùa Keo (Hà Nội)]] Tượng Pháp Vân, ở [[Chùa Dâu, Bắc Ninh]] **Tứ Pháp** (Chữ Hán: 四法) là các vị Phật - Bồ Tát có nguồn gốc từ các nữ thần
**Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm** là một phong trào văn hóa mang xu hướng chính trị của một số văn nghệ sĩ, trí thức sống ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam
Mặt trống đồng Ngọc Lũ-biểu tượng của [[người Việt]] Kiến trúc mái chùa đặc trưng của [[người Việt]] [[Châu thổ sông Hồng nhìn từ vệ tinh]] **Văn minh sông Hồng** (từ đầu Thiên niên kỷ
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
**Đài thiên văn phía Nam của Châu Âu** (tiếng Anh: _European Southern Observatory_ (ESO), tiếng Pháp: _Observatoire européen austral_), tên chính thức là **Tổ chức Nghiên cứu thiên văn châu Âu tại Nam Bán cầu**
**Trần Văn Thủy** (sinh ngày 26 tháng 11 năm 1940) là một đạo diễn phim tài liệu người Việt Nam, nổi tiếng qua các tác phẩm _Hà Nội trong mắt ai_, _Chuyện tử tế_ và
**Nguyễn Văn Vĩnh** (chữ Hán: 阮文永; 1882 – 1936) là nhà tân học, nhà báo, nhà văn, nhà phiên dịch Việt Nam, nhà chính trị Việt Nam đầu thế kỷ 20. Khi viết bài, ông
**Vân Nam** () là một tỉnh ở phía tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, giáp biên giới với các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai và Tuyên Quang của Việt Nam.
**Tứ Xuyên** () là một tỉnh nằm ở tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh lị của Tứ Xuyên là Thành Đô, một trung tâm kinh tế trọng yếu của miền Tây
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
thumb|Người dân Triều Tiên viếng tượng [[Kim Nhật Thành (trái) và Kim Jong-il ở Đài tưởng niệm Mansu Hill Grand, Bình Nhưỡng.]] nhỏ|phải|Khải Hoàn môn Bình Nhưỡng **Văn hóa Bắc Triều Tiên** chỉ về nền
nhỏ|phải|Những con [[tê giác châu Phi, ngày nay, chúng là biểu tượng của sự nghiệp bảo tồn động vật, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm về
350x350px|thumb|Logo chính thức của Kính thiên văn Chân trời sự kiện **Kính thiên văn Chân trời sự kiện** (tiếng Anh: **E**vent **H**orizon **T**elescope, **EHT**) là một dự án và là chương trình quan sát thiên
nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily trên Quảng trường Đỏ, ở Moskva|thế=]] **Văn hóa Nga** có truyền thống lâu đời về nhiều mặt của nghệ thuật, đặc biệt khi nói đến văn học, múa dân