Kính gửi chú Phạm Thiện Căn
Phó Chủ tịch Hội đồng Họ Phạm toàn quốc
Cháu là Nguyễn Xuân Cao
Mấy ngày trước, tại lễ trao học bổng tại Từ đường họ Phạm xã Yên Nhân, huyện Ý Yên, Nam Định cháu đã trao đổi với chú nguyện vọng của cháu là muốn tìm về nguồn gốc dòng họ Nguyễn vốn trước là họ Phạm. Cháu gửi chú nội dung bản Lời tựa và một số nhận định của cháu. Thông qua Hội đồng họ Phạm kính nhờ chú xem xét và bớt chút thời gian để cháu có thêm thông tin về dòng họ và nguồn gốc xuất xứ của dòng họ.
Cháu xin chân thành cảm ơn!… Xem trong gia phả cũ nói rằng: Cụ Thuỷ Tổ họ Nguyễn Cuối Thượng ta vốn trước là họ Phạm, dìu dắt bốn nam hai nữ từ xã Nghiêm Bình, tỉnh Hầu An đến đất Cảo Linh (nay là thôn Quả Linh, xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) khởi cư dân sắc, nên đổi thành họ Nguyễn. Con thứ hai cùng Tổ mẫu dời lên thôn Ngói xã An Cự (nay là thôn Ngói, xã Đại An, huyện Vụ Bản) làm ông Tổ họ Nguyễn ở trên đó. Còn ba ông ở lại cùng cụ Thuỷ Tổ làm ba ông tổ ở Cảo Linh. Đó là ông Tổ họ Nguyễn Thượng, ông Tổ họ Nguyễn Đoài, ông Tổ họ Nguyễn Trung.
Như vậy, nếu theo Gia phả họ ta thì gốc tích Tiiên Tổ là rõ ràng vậy. Con cháu đời đời hãy giữ lấy chớ có lãng quên cội nguồn Tiên Tổ. Vì người ta cũng như loài cây, nhờ có gốc rễ mà cây mỗi ngày thêm xanh tốt, cành lá mỗi ngày thêm nhiều, hoa trái mỗi ngày thêm ngọt ngào trĩu nặng. Cho nên, trồng cây là phải chăm vun đắp gốc rễ. Tiên Tổ là gốc rễ của loài người vậy.
Từ xưa đến nay, nhờ phúc ấm của Tổ tiên truyền lại, con cháu thuần khiết, cha con thuần khiết, con cháu thảo hiền, đời đời làm công khanh, văn võ hiển dương, anh hùng quán thế, phúc lộc dồi dào làm rạng rỡ Tổ tiên, ông bà cha mẹ. Con cháu ngày nay hãy giữ lấy những truyền thống tốt đẹp đó của dòng họ để xứng đáng là một dòng họ lớn của một vùng quê văn hiến.
Xem trong gia phả cũ nói rằng: Từ khi có gia phả đến nay, trải qua các đời chiến tranh loạn lạc liên miên, nhưng với truyền thống “uống nước nhớ nguồn” con cháu các đời sau đã nhiều lần sao chép, tu bổ để nối tiếp các đời, để mạch truyền không bị gián đoạn.Hoàng triều Khải Định năm thứ 10 (Ất Sửu tức năm 1925) con cháu các chi đời sau xếp hành thẳng lối, kính vâng sao chép gia phả.
Từng nghe: Tộc có gia phả như nước có quốc sử, sử ghi việc của đất nước, gia phả truyền lại việc thờ phụng tổ tiên. Đại khái quốc gia, họ tộc đều lấy đó làm gốc vậy. Thiết nghĩ: Họ ta từ nguỵ Tây soán khời (tức Nguyễn Quang Nhạc triều Tây Sơn (1778-1793) đột nhập dân thôn, cho nên gia phả thất truyền, không thể ghi chép xa xôi.
Tưởng nghĩ: Tổ tiên ta mở đất Cảo Linh đến nay, con cháu đông đúc, phồn thịnh, đời đời làm công khanh, văn võ hiển dương, anh hùng quán thế, là người công thần từ phương Bắc đến nước Nam cùng một lúc với ông Tổ họ Vũ Đông. Nhưng từ khi binh hoả đến nay, gia phả họ ta thất truyền, khó mà ghi chép thứ tự các đời. Duy chỉ đến năm Gia Long 18 (1819) gia phả các cho do cháu đời thứ 12 là Nguyễn Đức Mại, nguyên làm Đề sử phủ Nghĩa Hưng, nghe sự chỉ bảo của tiền nhân, cha anh đời trước hoàn thành việc trước tác, đính khảo gia phả. Từ khi cụ Thuỷ tổ họ ta đến nay việc ghi chép gia phả các chi lấy đó để làm thực lục vậy.
Hoàng triều Thiệu Trị năm thứ nhất (1841) cháu đời thứ 13 là Nguyễn Hy Vĩ từng đỗ Tam khoa Tú tài, khoa sau đỗ Cử nhân, bổ thụ Tri huyện Thạch An. Ông đã ghi chép thuật lại gia phả Đại tộc.
Cụ Thuỷ Tổ huý là Thư, thụy Phúc Toàn phủ quân
Cụ Tổ tỷ họ Đoàn, huý là Tú, hiệu Từ Cúc
Mộ cụ Thuỷ Tổ đặt tại xứ Mả Cố, Thổ tinh, Đặc cao, kị long, xem huyệt tú khí khác thường, con cháu phồn thịnh dài lâu. Nay họ Nguyễn Thượng, họ Nguyễn Đoài, họ Nguyễn Trung ở Giáp Cuối Thượng đều là con cháu của Ngài vậy.
Đại tộc lấy ngày Thanh minh, Đông chí là ngày tế chính cụ Thuỷ Tổ
Ngày 16 tháng 8 năm Duy Tân 2 (Mậu Thân – 1908) thì hoàn thành việc sao chép gia phả.
Hoàng triều Khải Định năm thứ nhất (1916) các chi trong Đại tộc hội họp tại Từ đường, tu bổ gia phả. Cháu đời thứ 14 ngành Cả chi Ba, chi trưởng Khoá sinh Nguyễn Văn Trác thuật ghi.
Đến Hoàng triều Khải Định 10 (Ất Sửu – 1925) bản tộc họp tại Từ đường phụng sao chép gia phả ba chi. Duy chỉ có cháu đời thứ 12 ngụ tại xã Thạch Lỗi huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Cháu đời thứ 12, ngành Cả chi Cả, Khoá sinh kinh thí Nguyễn Văn Các phụng sao chép thứ tự tộc phả.
Tưởng nghĩ: Gia phả họ ta từ lúc mới làm đến nay, Tiên Tổ con cháu trong họ các đời hàng lối rõ ràng, chia làm ba quyển.
Chi trưởng Nguyễn Văn Thường giữ 1 quyển
Chi trưởng thứ hai Nguyễn Văn Nghĩa giữ 1 quyển
Chi trưởng chi thứ ba Nguyễn Văn Bỉnh giữ 1 quyển
Vì thế cho nên họ ta lấy gia phả làm ngọc tàng vậy. Nguyện muôn đời con cháu không quên cội nguồn. Vả lại: cây có gốc, nước có nguồn. Gốc của người là Tổ, gốc của vạn vật là Trời. Vì thế con cháu đời sau hãy giữ lấy và làm theo vậy,
Cháu đời thứ 12 là Nguyễn Đức Mại đính khảo trước tác
Phần mộ, ngày kỵ cụ Thuỷ Tổ đến nay đều rõ ràng, con cháu các đời sau lấy để làm thực vậy, nguyện không quên cội nguồn Tiên Tổ.Cuối Giáp Thuỷ Tổ: ông họ Phạm, bà họ Đoàn, đề huề dìu dắt bốn nam hai nữ từ xã Nghiêm Bình, tỉnh Hầu An, bắt đầu đến sáng nghiệp đất Cảo Linh, khời cư dân ấp, đổi thành họ Nguyễn.
- Thuỷ Tổ công huý là Thư, thuỵ Phúc Toàn phủ quân, Ông thọ 78 tuổi, mất ngày 28 tháng Chạp, mộ tại xứ Mả Cố, hướng Tây Nam
- Thuỷ Tổ tỷ họ Đoàn, huý là Tú, hiệu Từ Cúc nhu nhân, Thuỷ Tổ tỷ mất ngày 8 tháng 6, mộ tại thôn Ngói, xã An Cự (nay là thôn Ngói, xã Đại An, huyện Vụ Bản).
Cụ Thuỷ Tổ sinh được 4 nam 2 nữ:
- Nữ tỷ lấy ông Tổ họ Phan
- Tổ cô họ Nguyễn ta là Nguyễn Thị, hiệu diệu Hinh nhu nhân, mất năm 12 tuổi, mất ngày 15 tháng Giêng, mộ tại xứ Mả Cố, bên cạnh mộ cụ Thuỷ Tổ.
Xem trong gia phả cũ ghi rằng: Cụ Thuỷ Tổ họ ta trước họ Phạm, huý là Thư, thuỵ Phúc Toàn phủ quân. Thuỷ Tổ tỷ họ Đoàn, huý Tú, hiệu diệu Cúc nhu nhân. Thuỷ Tổ từ xã Nghiêm Bình tỉnh Hầu An dìu dắt 4 nam 2 nữ đến đất Cảo Linh (nay là thôn Quả Linh, xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) mở mang dân ấp, nên đổi thành họ Nguyễn.
Thuỷ tổ sinh được 4 nam 2 nữ:
Trưởng nam là ông Tổ họ Nguyễn Thượng
Ông thứ hai cùng với Thuỷ Tổ tỷ lên thôn Ngói xã An Cự lập nghiệp ở trên đó, làm ông Tổ họ Nguyễn ở thôn Ngói, xã An Cự (nay là thôn Ngói, xã Đại An, huyện Vụ Bản).
Ông thứ ba là ông Tổ họ Nguyễn Đoài
Ông thứ tư là ông Tổ họ Nguyễn Trung
Hai nữ: trưởng nữ là Nguyễn Thị Quất, lấy ông Tổ họ Pham ở thôn ta.
Tổ cô là Nguyễn Thị hiệu diệu Hinh, mất ngày 15 tháng Giêng, mộ tang tại Mả Cố, bên cạnh mộ cụ Thuỷ TổVề địa danh: xã Nghiêm Bình, tỉnh Hầu An. Cháu tra trong các sách địa chí thì có nhắc tới 2 huyện Hầu An (Hoài An), chứ không có tỉnh Hầu An. Một huyện Hầu An nay thuộc huyện Mỹ Đức (Hà Nội). Hai là huyện Hầu An (tỉnh Cao Bằng).
Về việc đổi họ từ họ Phạm sang họ Nguyễn: theo những tư liệu trong gia phả, cụ Thủy tổ vốn là bậc anh hùng cái thế, là bậc anh hùng đến từ phương Bắc. Qua câu này, có thể nhận định cụ là một tướng của nhà Mạc vì:
Thời Lê – Mạc, đất nước ta chia làm hai vùng: Nam triều của nhà Lê – Trịnh và Bắc triều của nhà Mạc
Sau khi nhà Mạc thất thế, để tránh hậu họa, cụ đã thay đổi họ và di cư từ xã Nghiêm Bình, huyện Hầu An về thôn Quả Linh, xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định để tránh nạn (đói lên Bắc, chạy giặc về Nam)
Hiện nay, dòng họ đến đời cháu là đời 21. Mỗi đời khoảng 25 năm thì 21×25=525 năm. Như vậy là phù hợp với thời gian từ khi nhà Mạc thất thế đến nay
Vì vậy, qua những thông tin và tư liệu này, cháu muốn nhờ các chú trong Hội đồng họ Phạm toàn quốc nếu có thông tin gì về dòng họ Phạm hiện nay ở xã Nghiêm Bình, huyện Hầu An như thế nào? Và hiện nay xã Nghiêm Bình, huyện Hầu An thuộc địa phương nào của huyện Mỹ Đức (Hà Nội) hoặc địa phương nào thuộc tỉnh Cao Bằng.
👁️
3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Link
https://hophamvietnam.com/3fE8_f1d921d886
Kính gửi chú Phạm Thiện Căn Phó Chủ tịch Hội đồng Họ Phạm toàn quốc Cháu là Nguyễn Xuân Cao Mấy ngày trước, tại lễ trao học bổng tại Từ đường họ Phạm xã Yên
**Nguyễn Kim** (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của
**Nguyễn Thị Lộ** (chữ Hán: 阮氏路; 1400 (?) – 1442), là một nữ quan triều Lê sơ và là người vợ lẽ của Nguyễn Trãi, một danh nhân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Cảng Sài Gòn 0–2 Tổng cục Đường sắt**, được biết đến với tên gọi **Trận cầu đoàn tụ** (ở Việt Nam) hay **Trận cầu thống nhất** (theo cách gọi của báo chí nước ngoài), là
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
**Phan Văn Anh Vũ** (sinh ngày 2 tháng 11 năm 1975), biệt danh **Vũ nhôm**, là một doanh nhân Việt Nam. Ông sống tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, được xem là _trùm_
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Đinh La Thăng** (sinh ngày 10 tháng 9 năm 1960) là một chính khách Việt Nam và tiến sĩ kinh tế. Ông từng là Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải (2011-2016), Chủ tịch Hội
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy** (tên giao dịch tiếng Anh: _Shipbuilding Industry Corporation_, viết tắt là _SBIC_) là một tổng công ty chuyên về hoạt động đóng tàu do Nhà nước Việt Nam
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Thành phố Hồ Chí Minh** hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Văn Cao** (tên khai sinh là **Nguyễn Văn Cao**, 15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ, chiến sĩ biệt động ái quốc người
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**_Thủy hử_** hay **_Thủy hử truyện_** (水滸傳, nghĩa đen là "bến nước"), tên gốc là **_Trung nghĩa truyện_** (忠義傳) hay **_Trung nghĩa Thủy hử truyện_** (忠義水滸傳), là một tác phẩm trong bốn tác phẩm lớn
**Giang Tô** (江苏) là một tỉnh ven biển ở phía đông Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng của Giang Tô là "Tô" (苏, sū), tức chữ thứ hai trong tên tỉnh. Năm 2018,
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
Tượng [[Thích-ca Mâu-ni tu khổ hạnh theo phong cách Phật giáo Hy Lạp hóa, khoảng thế kỷ thứ 2–3, Gandhara (nay thuộc miền đông Afghanistan), Bảo tàng Lahore, Pakistan.]] **Phật giáo Nguyên thủy**, còn gọi
nhỏ|289x289px|_Khuê Văn Các_ - biểu tượng của Thủ đô [[Hà Nội. Đây là nơi học sinh thường hay chụp ảnh trong những lễ tốt nghiệp]]**Văn Miếu – Quốc Tử Giám** là quần thể di tích
**Câu lạc bộ bóng đá Công an Thành phố Hồ Chí Minh** là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đội bóng này là hậu thân của
**Karl XIV Johan**, tên khai sinh: **Jean-Baptiste Bernadotte**, về sau là **Jean-Baptiste Jules Bernadotte** (26 tháng 1 năm 1763 – 8 tháng 3 năm 1844), con trai thứ hai của luật sư Henri nhà Bernadotte,
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Thừa Thiên Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 承天高皇后, 19 tháng 1 năm 1762 - 22 tháng 2 năm 1814), tên thật là **Tống Thị Lan** (宋氏蘭), là người vợ nguyên phối và Chánh cung Hoàng
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
nhỏ|phải|Một con hổ dữ nhỏ|phải|Một con [[hổ Sumatra, chúng là phân loài hổ có thể hình nhỏ nhất nhưng lại hung hăng và tích cực tấn công con người]] **Hổ vồ người** (hay **hổ vồ
**Phạm Văn Trình** (chữ Hán: 范文程, 1597 – 1666), tự là **Hiến Đấu** (憲斗), sinh quán là Thẩm Dương vệ (nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), nguyên quán là Lạc Bình, Giang Tây, quan viên,
Vườn hoa Thủy Vĩ thành phố Lào Cai, mang tên gọi của huyện (châu) Thủy Vĩ phủ Quy Hóa trấn Hưng Hóa Đại Việt- Việt Nam xưa, nằm dọc bờ trái dòng sông Nậm Thy
nhỏ|phải|Tượng con Tê giác trước [[Bảo tàng d'Orsay của Henri Alfred Jacquemart, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm tê giác của Johann Dietrich Findorff **Hình tượng
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh** là đơn vị sự nghiệp báo chí trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là đài truyền hình đầu tiên ở Việt
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Tam Sa** (, âm Hán Việt: Tam Sa thị) là một thành phố được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập vào ngày 24 tháng 7 năm 2012 để quản lý một khu vực