✨Vạc đồng (nhà Nguyễn)

Vạc đồng (nhà Nguyễn)

Bộ sưu tập Vạc đồng của [[Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế]]

Tại cố đô Huế hiện còn lưu giữ và trưng bày 15 chiếc vạc đồng là những tác phẩm nghệ thuật thật sự, thể hiện trình độ kỹ thuật đúc và mỹ thuật tuyệt vời. Trong số đó, 11 chiếc được đúc từ thời các chúa Nguyễn, còn 4 chiếc được đúc vào thời Minh Mạng.

Vạc đồng thời các chúa Nguyễn

Theo sử sách, từ năm 1631 đến năm 1684, chúa Nguyễn Phúc Chu (1631 – 1635) và chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687) đặt tại Phước Yên (1626 – 1636) và Kim Long (1636 – 1687) chứ chưa chuyển về Phú Xuân. Tức là 11 chiếc vạc đồng này xuất hiện vào thời gian này; tuy nhiên, người ta chưa xác định được đặt chỗ nào. Hiện nay, 11 chiếc này có đến 7 chiếc đặt tại hoàng cung, 3 chiếc đặt tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, một chiếc đặt tại Lăng Đồng Khánh.

Tất cả những chiếc vạc có kích thước to lớn, từ vài trăm đến vài ngàn cân, theo giả thiết, tác giả của những chiếc vạc này chính là do Cruz - người Bồ Đào Nha sống tại Phường Đúc - Huế, lấy vợ người Việt Nam và là người được xem là sáng tạo nên ngành đúc nổi tiếng. Ông là người giúp chúa Nguyễn đúc vũ khí và vạc đồng để tỏ rõ uy quyền của dòng họ Nguyễn.

Trừ chiếc làm năm 1659, 10 chiếc làm sau có kiểu dáng tương tự nhau và gồm loại 4 quai và loại có 8 quai.

Loại vạc 4 quai gồm có 6 chiếc, trong đó có 2 chiếc đúc vào năm 1659, các chiếc còn lại vào các năm 1660, 1662, 1667 và 1673 (tức các chiếc số 2, 3, 4, 5, 10 và 11 theo thứ tự liệt kê trên). 4 quai được đặt gần trên miệng và cao vượt miệng, xoắn hình dây thừng. Phần thân vạc chia thành nhiều ô và được trang trí khác nhau hoàn toàn, tuy nhiên vạc nào là cặp thì trang trí hoàn toàn giống nhau.

Loại vạc 8 quai gồm có 4 chiếc đúc vào các năm 1670, 1672 (2 chiếc) và 1684 (tức các chiếc số 6, 7, 8 và 9 theo thứ tự liệt kê trên).Đặc điểm chung của loại vạc này là 8 quai được đặt dưới miệng vạc một đoạn và cao không quá miệng vạc. Các chiếc quai kiểu này đều tạo hình đầu rồng có cổ vương ra từ thân vạc, trông khá sinh động. Phần thân vạc không chia thành lớp hay ô hình học để trang trí như loại vạc 4 quai mà chỉ trang trí phần trên, phía gần quai vạc. Mô típ trang trí cũng khác kiểu vạc 4 quai rất nhiều. Nhưng cũng như loại vạc 4 quai, những chiếc cùng một đôi thì có mô típ trang trí gần tương tự nhau.

Tất cả 11 chiếc vạc trên dĩ nhiên đều không có chân đúc liền thân. Hiện nay, trừ 3 chiếc vạc đang đặt trước điện Long An được kê trên bộ chân (3 chiếc kiểu chân kiềng) bằng gang được tạo dáng khá đẹp và hài hoà với phần thân, các chiếc vạc còn lại đều được đặt trên các chân bằng đá Thanh khá mộc mạc. Có lẽ các bộ chân này đều được làm lại trong thời Nguyễn.

Vạc thứ nhất

Vạc đồng trước [[điện Long An]] Vạc được đúc năm 1631, thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, hiện đang được đặt ngay trước hiên điện Long An (hiện là toà nhà trưng bày chính của Bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế). Đây là một chiếc vạc có hình dáng rất lạ, tương tự một chiếc nồi kích thước lớn, cổ thắt bụng phình to, trên cổ có 4 quai được tạo dáng khá đẹp. Trên thân vạc có đề niên đại "Tuế thứ Tân Mùi nhuận trọng xuân", tức năm 1631 . Trọng lượng vạc là 561 cân(ta). Vạc này do người Việt Nam đúc.

  • Văn tự khắc trên vạc: :Tuế thứ Tân Mùi nhuận trọng xuân nguyệt cát nhật tạo :Trọng ngũ bách lục thập nhất cân

Vạc thứ hai

Chiếc vạc thứ hai được đúc năm 1659, hiện được đặt phía trước điện Kiến Trung, bên trong Tử Cấm Thành Huế. Vạc có 4 quai. Trên miệng vạc có ghi rõ năm đúc là Thịnh Đức thứ 7 và trọng lượng chiếc vạc là 2.154 cân (khoảng 1.378 kg). Trên miệng đỉnh có khắc dòng chữ "nhất song" (nghĩa là một đôi) nhưng hiện còn chỉ 1 chiếc.

  • Văn tự khắc trên vạc: :Thịnh Đức thất niên tạo đỉnh :Đồng nhị thiên nhất bách ngũ thập tứ cân

Vạc thứ ba

Chiếc vạc thứ ba này cũng được đúc vào năm 1659, nhưng không đề niên hiệu vua Lê mà đề niên đại theo can chi (Kỷ Hợi niên tứ nguyệt tạo đỉnh), trọng lượng của vạc chỉ là 560 cân, nhưng nó lại có cùng kiểu dáng và hình thức trang trí với chiếc vạc đặt trước điện Kiến Trung. Cùng niên đại và cùng hình dáng, kiểu thức trang trí. Vạc có 4 quai. Trên miệng chiếc vạc thứ 2 này còn khắc 3 chữ "Nội phủ tướng".

  • Văn tự khắc trên vạc: :Kỷ hợi niên tứ nguyệt tạo đỉnh :Nội phủ tướng :Đồng ngũ bách lục thập cân.

Vạc thứ tư và thứ năm

Một chiếc Vạc đồng trước sân [[Điện Cần Chánh (hoàng thành Huế)|Điện Cần Chánh]] 2 vạc này hiện đang được đặt trước sân điện Cần Chánh, bên trong Tử Cấm Thành. Đây là 2 chiếc vạc có kích thước và trọng lượng lớn nhất trong các vạc thời chúa Nguyễn. Chiếc thứ nhất đúc năm 1660 (năm Thịnh Đức thứ 8), trọng lượng 2.482 cân; chiếc thứ hai đúc năm 1662 (Thịnh Đức thứ 10), trọng lượng 2.425 cân; cả hai đều có đường kính miệng trên 2,2 m, cao trên 1 m. Hai chiếc vạc này có hình dáng và kiểu thức trang trí rất giống nhau, có 4 quai, trên miệng vạc đều khắc 2 chữ Hán "Nhất Song" (một đôi).

  • Văn tự khắc trên vạc: :Thịnh Đức bát niên nhị nguyệt tạo đỉnh :Đồng nhị thiên tứ bách bát thập nhị cân :Thịnh Đức thập niên tạo đỉnh :Đồng nhị thiên tứ bách nhị thập ngũ cân

Vạc thứ sáu

Chiếc vạc thứ sáu đúc vào năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), hiện đặt ở phía trước, bên phải Duyệt Thị Đường, nặng 938 cân.

  • Văn tự khắc trên vạc: :Cảnh Trị bát niên bát nguyệt tạo lịch :Đồng cửu bách tam thập bát cân

Vạc thứ bảy

Là chiếc cùng đôi với chiếc vạc đặt ở Duyệt Thị Đường và nó được đúc sau đó 1 năm (1671), hiện được đặt ở góc sân phía đông điện Thái Hoà. Chiếc vạc còn lại nặng 896 cân, hình thức trang trí gần giống như chiếc kia.

  • Văn tự khắc trên vạc: :Cảnh trị thập niên lục nguyệt tạo lịch :Đồng bát bách cửu thập lục cân

Một bên có dòng chữ Chính nội phủ

Vạc thứ tám và thứ chín

Đôi vạc này dễ nhận biết vì từ hình dáng đến kích thước đều tương tự nhau, tuy nhiên, niên đại đúc của chúng lại lệch nhau đến 13 năm. Đó là hai chiếc vạc đặt trước sân điện Càn Thành. Chiếc bên trái (nhìn từ trong ra) đúc năm Chính Hoà thứ 5 (1684), nặng 1395 cân; chiếc bên phải đúc năm Cảnh Trị thứ 10 (1671), nặng 1.390 cân. Cũng như hai chiếc vạc đặt trước sân điện Cần Chánh, hai chiếc vạc này có lẽ đã được đặt tại đây từ rất sớm.

  • Văn tự khắc trên vạc: :Cảnh Trị thập niên chính nguyệt tạo lịch :Đồng nhất thiên tam bách cửu thập cân :Chính Hòa ngũ niên lục nguyệt tạo lịch :Đồng nhất thiên tam bách cửu thập ngũ cân

Vạc thứ mười

Được đặt trong khuôn viên phần tẩm điện lăng Đồng Khánh, phía đầu hồi nhà Hữu Vu(của điện Ngưng Hy). Vạc loại 4 quai, đúc năm Dương Đức thứ 2 (1673), nặng 1.013 cân. Tuy trên miệng vạc có đề 2 chữ Hán "nhị song" (tức 2 đôi) nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm ra loại vạc cùng cặp.

  • Văn tự khắc trên vạc: :Dương Đức nhị niên lục nguyệt tạo đỉnh. :Đồng nhất thiên tam thập cân

Vạc thứ mười một

Một chiếc vạc tại [[Điện Long An]] Hiện đặt phía trước hiên, bên trái điện Long An, được đúc vào năm Đinh Tỵ(1667). Chiếc vạc này nặng 560 cân, có 4 quai, trên miệng có đề nhất song nhưng chưa tìm ra chiếc cùng đôi với nó. Điểm đáng chú ý ở chiếc vạc này là trên miệng vạc có khắc 3 chữ tiền chính cung tức nguyên xưa nó được đặt trước cung điện chính của phủ chúa.

  • Văn tự khắc trên vạc: :Đinh tỵ niên tứ nguyệt sơ lục nhật tạo đỉnh :Đồng ngũ bách lục thập cân

Một bên có chữ: Tiền chánh cung

Vạc đồng thời Minh Mạng

4 vạc này đặt tại điện Hòa Khiêm, trong khu vực lăng Tự Đức. Bốn chiếc được đặt đối xứng với nhau, lấy trục đối xứng là đường Thần đạo của phần tẩm điện và gần như lấy điểm đối xứng là vị trí đặt chiếc đỉnh đồng đốt vàng mã hình chữ nhật đặt gần như ở chính giữa sân. Theo thứ tự từ trong (phía điện Hòa Khiêm) ra ngoài, từ trái qua phải, 4 chiếc vạc này gồm:

Chiếc thứ 1 được đúc vào năm 1825, nặng 430 cân; Chiếc thứ 2 cũng được đúc cùng năm với chiếc trên, nặng 435 cân; Chiếc thứ 3 được đúc vào năm 1828, nặng 352 cân; Chiếc thứ 4 được đúc cùng năm với chiếc thứ 3, nặng 399 cân. Minh Mạng lục niên nhị nguyệt cát nhật Võ Khố phụng tạo); hai chiếc sau thì chỉ đề năm đúc và trọng lượng chứ không ghi đơn vị đứng ra đúc.

Tuy về trọng lượng 4 chiếc vạc trên có khác nhau, về hình thức và kích thước thì gần như tương tự. 4 quai đặt thấp dưới miệng vạc, quai tạo kiểu đầu rồng, thân vạc hình chum, thân trơn, không trang trí, chân đế hình tròn, làm bằng đá Thanh.

Giá trị

Vạc đồng tại kinh thành Huế xưa kia không chỉ có 15 cái mà có rất nhiều. Vạc đồng phản ánh một thời kỳ huy hoàng của ngành đúc đồng Huế, mang giá trị lịch sử cao. Tuy chỉ còn 15 cái, một số khác bị thất lạc và bị biến mất theo thời gian. Tuy nhiên với 15 cái vạc đồng này, du khách có thể tìm hiểu về ngành đúc đồng một thời và ngành mỹ thuật trên đồ đồng. Bộ sưu tập 15 chiếc vạc đồng được xem là bộ sưu tập nhiều nhất và độc nhất về loại này và được xem là bảo vật của quốc gia.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Bộ sưu tập Vạc đồng của [[Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế]] Tại cố đô Huế hiện còn lưu giữ và trưng bày 15 chiếc vạc đồng là những tác phẩm nghệ thuật thật
**Cửu Đỉnh** của Nhà Nguyễn (tiếng Hán: 阮朝九鼎) là chín cái đỉnh bằng đồng, đặt ở trước sân Thế miếu trong Hoàng thành Huế. Cửu Đỉnh được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào mùa
**Nguyễn Hiền** (chữ Hán: 阮賢, 11 tháng 3, 1234 - 05 tháng 9, 1256) là trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam, khi mới mười ba tuổi. Cuộc đời ông gắn
Di tích đài tưởng niệm kênh Nhà Lê ở Nghệ An năm 2009 Âu cầu Hội - [[cửa biển Thần Phù|cửa Thần Phù trên sông Nhà Lê ở Yên Mô, Ninh Bình]] **Kênh Nhà Lê**
**Trống đồng Đông Sơn** hay **trống đồng Heger loại I** là một loại trống đồng tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn (thế kỷ 7 TCN - thế kỷ 6 CN) của người Việt cổ.
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp thủ đô Hà Nội, phía đông giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
**Nguyễn Quán Nho** (1638 – 1708) là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Xuất thân **Nguyễn Quán Nho** là người làng Đông Triều, xã Vãn Hà, huyện Thụy Nguyên, thuộc
**Hoàng Dịch** (chữ Hán: 黄易, 12 tháng 11 năm 1744 – 26 tháng 3 năm 1802), tự **Đại Dịch, Đại Nghiệp**, hiệu **Tiểu Tùng, Thu Am, Thu ảnh am chủ, Liên Tông đệ tử, Tán
**Đồng Văn** là một huyện miền núi cũ thuộc tỉnh Hà Giang, đồng thời là huyện cực bắc của Việt Nam. ## Địa lý nhỏ|292x292px|[[Đèo Mã Pí Lèng nối hai huyện Mèo Vạc và Đồng
**Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019** (), tên chính thức là **Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 30** hay **SEA Games 30**, thường được gọi là **Philippines 2019**, là một
:_Xem nghĩa khác tại Vạc (định hướng)_ Vạc đồng trước [[điện Long An trong kinh thành Huế]] **Vạc** một loại vật dụng cổ ở Việt Nam, có hình lòng chảo, có thể được dùng để
**Vạc Phổ Minh** là một chiếc vạc bằng đồng được đúc vào năm 1262 bởi thượng hoàng Trần Thái Tông, nhà Trần Việt Nam, và đã đặt tại phủ Thiên Trường (nay là Nam Định).
**Quần thể di tích Cố đô Huế** hay **Quần thể kiến trúc cố đô Huế** là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian
**Văn hóa Đông Sơn** là một nền văn hóa cổ đã xuất hiện vào khoảng năm 800 Trước Công Nguyên, từng tồn tại ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam và Bắc Trung bộ
**Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003** (), tên chính thức là **Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 22**, hay còn gọi là **SEA Games 22** và **Vietnam 2003**, là một
**Nhà Đinh** (chữ Nôm: 茹丁, chữ Hán: 丁朝, Hán Việt: _Đinh triều_) là triều đại quân chủ phong kiến trong lịch sử Việt Nam bắt đầu năm 968, sau khi Đinh Tiên Hoàng dẹp xong
Đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Kim Sơn **Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ** là lễ hội lớn nhất của cư dân huyện mới ven biển Kim Sơn tỉnh Ninh Bình để ghi nhớ công
**Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật** là 1 trong 2 lĩnh vực của Giải thưởng Nhà nước, do Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định, tặng thưởng cho những tác giả
**Trương Sĩ Thành** (, 1321 – 1367), tự Xác Khanh, tên lúc nhỏ là Cửu Tứ, người Bạch Câu Trường, Hưng Hóa, thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân cuối đời Nguyên. Bấy giờ có thuyết
**Trận Tốt Động – Chúc Động** hay **Trận Tụy Động** là một trận đánh diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 11 năm 1426 giữa nghĩa quân Lam Sơn và quân đội nhà
**Nguyễn Văn Ngọc** (1 tháng 3 năm 1890 - 26 tháng 4 năm 1942) tự **Ôn Như** là nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hoá Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh năm
**Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021** (), thường được gọi là **SEA Games 31** hoặc **Việt Nam 2021**, là kỳ SEA Games lần thứ 31 – sự kiện thể thao đa môn cấp
nhỏ|Hoàng Kiêm **Hoàng Kiêm** (chữ Hán: 黃兼; 1870-1939), tự **Cấn Sơn**, hiệu là **Ngọc Trang** (玉莊), là một danh sĩ thời Nguyễn. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Giáp
**Trận bao vây thành Đông Quan**, diễn ra cuối năm 1426 đến cuối năm 1427, đánh dấu giai đoạn quyết định trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, khi nghĩa quân dưới sự chỉ huy của
**Quyền động vật trong các tôn giáo Ấn Độ** là quan điểm, quan niệm, giáo lý, học thuyết của các tôn giáo lớn ở Ấn Độ bao gồm Ấn Độ giáo (Hindu giáo), Phật giáo
**Sân vận động Olympic** (; ) là một sân vận động thể thao nằm ở Công viên Olympic Berlin, Berlin, Đức. Sân được xây dựng ban đầu bởi Werner March cho Thế vận hội Mùa
**Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa** (chữ Hán: 阮福靜和; 1830 - 22 tháng 4 năm 1882), biểu tự **Quý Khanh** (季卿), lại có tự khác **Dưỡng Chi** (養之), hiệu **Huệ Phố** (蕙圃), lại có hiệu **Thường Sơn**
**Ngô** (吳) (229 - 1 tháng 5, 280) sử gọi là **Tôn Ngô** (孫吳) hay **Đông Ngô** (東吳) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc (220-280) trong lịch sử Trung Quốc. Trước đó,
**Thu Bồn** (1 tháng 12 năm 1935 – 17 tháng 6 năm 2003), tên thật là **Hà Đức Trọng**, là một nhà thơ, nhà văn người Việt Nam. Thu Bồn được nhận nhiều giải thưởng
**Động vật trong Phật giáo** chỉ về quan niệm của Phật giáo về các loài động vật, trong đó có lý thuyết về bảo vệ quyền của động vật thông qua quan niệm "_Chúng sinh
Vị trí vùng đồng bằng sông Hồng (màu đỏ) trên bản đồ Việt Nam
Các tiểu vùng ở Bắc Bộ trước năm 2013, khi Vùng Đồng bằng sông Hồng chưa có tỉnh Quảng Ninh **Đồng
**Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông** (ký hiệu toàn tuyến là **CT.01**) là tên gọi thông dụng nhất của một tuyến đường cao tốc thuộc hệ thống đường cao tốc của Việt Nam
Mật ong là một thực phẩm quá quen thuộc với mọi người, tuy nhiên bạn đã biết mật ong có tất cả bao nhiêu loại chưa? Cách chọn mật ong nguyên chất như thế nào?
**Cửu vị thần công** (chữ Hán: 九位神攻) là tên gọi 9 khẩu thần công thời nhà Nguyễn được các nghệ nhân Huế đúc năm Gia Long thứ hai (1803). Chín khẩu thần công này được
**Đông Hà** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Thành phố Đông Hà nằm ở ngã ba Quốc lộ 1 và Quốc lộ 9. Đông Hà là trung tâm chính
**Phố cổ Hội An** là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển thành phố Đà Nẵng, Việt Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 30 km
**Lý Quốc Sư** (chữ Hán: 李國師 15 tháng 10 năm 1065 –19 tháng 11 năm 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp
nhỏ|phải|[[Tằm tơ|Tằm nhộng ở Việt Nam]] **Giống vật nuôi Việt Nam** chỉ về các giống vật nuôi có nguồn gốc, xuất xứ từ Việt Nam cũng như một số giống đã được nội địa hóa
**_Tam quốc diễn nghĩa_** (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: _sān guó yǎn yì_), nguyên tên là **_Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa_**, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử
**Đinh Tiên Hoàng** (; 22 tháng 3 năm 924 - tháng 10 năm 979), tên húy là **Đinh Bộ Lĩnh** (丁部領)), là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt
**Văn Thiên Tường** (, 6 tháng 6, 1236 - 9 tháng 1, 1283) là thừa tướng trung nghĩa lẫm liệt nhà Nam Tống, một thi sĩ nổi tiếng mà tư tưởng yêu nước đã thấm
**Loạn Chu Cao Hú** (), còn được gọi là **Loạn Cao Hú** () hoặc **Biến cố Định Nan** (), là một sự kiện xảy ra vào năm đầu niên hiệu Tuyên Đức nhà Minh (1426),
**Đặng Hữu Phổ** (1854-1885), là liệt sĩ Việt Nam thời Nguyễn. ## Tiểu sử **Đặng Hữu Phổ** sinh ngày 29 tháng 9 năm Giáp Dần, dưới triều Tự Đức (tức ngày 19 tháng 1 năm
**La Hiên** là một xã nằm ở phía đông của tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. ## Địa lý Xã La Hiên có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Võ Nhai *Phía tây giáp
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước