✨Uta Ranke-Heinemann
Uta Ranke-Heinemann (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1927) là nhà thần học và học giả người Đức. Bà là giáo sư dạy môn lịch sử Tôn giáo tại Đại học Essen ở quê hương bà.
Uta Ranke-Heinenann là người phụ nữ đầu tiên chiếm được ngôi vị Giáo sư Thần học của Giáo hội Công giáo Rôma, nhưng đến năm 1987 bà bị tước bằng dạy học vì dám phủ nhận tính chất đồng trinh của Đức Mẹ Maria. Uta Ranke-Heinemann cũng là tác giả của quyển sách "Dẹp bỏ những chuyện ấu trĩ" (Putting Away Childish Things) có nội dung phủ nhận các tín điều truyền thống của Công giáo mà bà cho là lỗi thời, tỉ như tư cách thần thánh của chúa Giêsu, chuyện xác chết sống lại, thuyết Chúa Ba Ngôi. Trong một tác phẩm nổi tiếng khác, "Thái giám của Nước Trời" (Eunuchs of the Kingdom of Heaven), Uta Ranke-Heinenmann đã vạch trần những vấn đề về tình dục trong Giáo hội Công giáo từ trước tới nay.
Tiểu sử
Uta Ranke-Heinemann sinh ra tại thành phố Essen trong một gia đình theo đạo Tin Lành nhánh Calvin. Cha của Uta, ông Gustav Heinemann là đảng viên Đảng Dân chủ Xã hội Đức và là Tổng thống Đức trong giai đoạn 1969–74. Trong thời gian đó, rất ít học sinh của trường này có thể vượt qua kì thi tốt nghiệp với thành tích xuất sắc, trước Uta trong vòng 30 năm không có ai đạt được thành tích này. Từ năm 1947 đến 1973, Uta theo học Thần học Phúc Âm trong 13 học kỳ tại các Đại học Basel, Oxford, Montpellier và Bonn. Ngày 25 tháng 9 năm 1953, Heinemann cải đạo sang Công giáo và tiếp tục học Thần học Công giáo ở Đại học Ludwig Maximilian München. Bà là bạn học cùng lớp trong niên khóa 1953/54 với nhà Thần học Nữ giới Maria Elisabeth Gössmann và linh mục Joseph Ratzinger, tức giáo hoàng tương lai Biển Đức XVI. Năm 1954, dưới sự hướng dẫn của nhà thần học Michael Schmaus, bà làm luận án Das frühe Mönchtum. Seine Motive nach den Selbstzeugnissen der ersten Mönche và năm 1954 tốt nghiệp bằng tiến sĩ cấp bậc "rất danh dự" (magna cum laude) về môn thần học tại Đại học LMU. Cần lưu ý, trước năm 1954, việc phụ nữ đậu tiến sĩ Thần học là chuyện không thể có.
Ngày 30 tháng 12 năm 1954, Uta Heinenmann kết hôn với người bạn cũ cùng lớp, giảng viên thần học Công giáo Edmund Ranke và có hai người con trai, Johannes (sinh năm 1958) và Andreas (sinh năm 1960). Từ năm 1955, Heinenmann làm giảng viên tại Erzbischöflichen Katechetinnenseminar ở Bonn và từ năm 1965 bà giảng dạy tại đại học Pädagogischen ở Neuss. Năm 1969, bà là người phụ nữ đầu tiên được cấp chứng chỉ HDR - tức là công nhận đủ tư cách giảng dạy ở bậc đại học - về Thần học Công giáo tại Đức và vì vậy trở thành người phụ nữ đầu tiên chiếm được ghế giảng dạy thần học tại một đại học Đức. Không lâu sau đó, tháng 1 năm 1970 bà trở thành nữ Giáo sư thần học đầu tiên của Công giáo, giảng dạy tại Đại học Essen. Năm 1980 bà được bổ nhiệm làm Giáo sư dạy về Tân Ước và về lịch sử Giáo hội Công giáo thời kỳ sơ khai tại Đại học Duisburg. Kể từ năm 1985 thì đổi sang dạy tại đại học Essen.
Bị huyền chức
Từ thập niên 1970, Uta Ranke-Heinemann bắt đầu có những tư tưởng chỉ trích các vấn đề của giới linh mục trong Giáo hội Công giáo. Thật ra, ảnh hưởng của Rudolf Bultmann lên Uta Heinenmann - diễn ra trong thời kỳ bà lánh nạn tại nhà của Rudolf trong chiến tranh - đã góp phần định hình nên tư tưởng cải cách và chủ nghĩa hòa bình của Uta. Rudolf Bultmann cũng đánh giá cao tài năng và bày tỏ sự quý mến của mình đối với Uta trong một bức thư ngày 16 tháng 1 năm 1945 gửi cho Gustav Heinemann.
Rồi câu chuyện bùng nổ vào ngày 15 tháng 4 năm 1987 trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên đài truyền hình WDR Fernsehen ở Nhà thờ Đức Mẹ Maria tại Kevelaer. Khi được hỏi về tính chất đồng trinh của Đức Mẹ Maria, Uta Ranke-Heinemann đã thẳng thừng bác bỏ tín điều này.
Nói cách khác, Uta Heinenmann tuyên bố tín điều về sự trinh trắng của Đức Mẹ về mặt sinh học là chuyện không có thật, và chỉ có "tinh khí tâm linh" trong bụng của Maria là thứ thật sự bắt nguồn từ Thánh Linh mà thôi cũng như đoạn văn sau của Ratzinger trong cuốn sách "Giới thiệu về đạo Kitô":
Hậu quả đến ngay lập tức. Ngày 15 tháng 6 năm 1987, Giám mục Essen là Franz Hengsbach đã huyền chức Heinenmann và tước bỏ tư cách giảng dạy thần học của bà và phải tìm kiếm việc làm độc lập trong các trường Đại học
Viết sách "Thái giám của Nước Trời"
Tháng 10 năm 1988, một tác phẩm nổi bật của Uta Ranke-Heinemann là "Thái giám của Nước Trời: Giáo hội Công giáo và chuyện tình dục" (Eunuchen für das Himmelreich – Katholische Kirche und Sexualität) được xuất bản. Nó trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất trong năm 1989 theo thống kê của Der Spiegel, với khoảng 2,3 triệu bản in được bán ra. Năm 2000, cuốn sách được tái bản với nhiều thông tin mới được cập nhật, ví du như có thêm nguyên một chương nói về nạn đồng tính luyến ái trong giáo hội. Bản sách bìa mềm năm 2012, có thêm một chương nói về giáo hoàng Biển Đức XVI. Trong tác phẩm này, Ranke-Heinemann miêu tả cảm tưởng của bà về lịch sử 2000 năm của Giáo hội về đạo đức tình dục, từ thời Giêsu tới thời Biển Đức XVI. Việc tác giả thông hiểu 12 thứ tiếng đã giúp ích rất nhiều cho việc dịch thuật chính xác cuốn sách này.
Lên tiếng về vấn đề linh mục loạn dâm
Ranke-Heinemann xem hành vi ấu dâm của các linh mục là:"mối nguy tồn tại trong một giáo hội đơn giới tính, vốn loại bỏ hoàn toàn vai trò của phụ nữ nhưng không thành công trong việc làm mất giới tính suốt 2000 năm qua."
Chuyện linh mục loạn dâm vốn được coi là "thâm cung bí sử" của Giáo hội và những ai tiết lộ đều đứng trước nguy cơ bị vạ tuyệt thông, căn cứ theo các quy định ban hành trong các sắc chỉ Crimen sollicitationis năm 1962 và De delictis gravioribus năm 2001.
Nhân việc Giám mục Regensburg là Gerhard Ludwig Müller bị tố cáo tuyển dụng một linh mục phạm tội hiếp dâm trẻ em làm cha xứ dưới quyền ông ta, Uta Ranke-Heinemann đã tuyên bố, chỉ lệnh của Biển Đức XVI hồi còn làm Hồng y năm 2001 (De delictis gravioribus) sẽ tiếp tục gây thêm nhiều tai vạ cho trẻ em và thiếu niên trên thế giới, vì vậy bà yêu cầu Giáo hoàng hãy thu hồi lại những thứ cản trở công lý một cách trắng trợn gây ra bởi cái chỉ lệnh đó.
Hoạt động xã hội và chống chiến tranh
Từ thập niên 1970, Uta Ranke-Heinemann bắt đầu dấn thân vào các hoạt động xã hội và bảo vệ quyền con người. Bà vận động cho việc chống sử dụng bom napalm và tiêu hủy toàn bộ vũ khí hạt nhân. Năm 1972, bà kêu gọi viện trợ nhân đạo và thuốc men cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam, và thực hiện các cuộc vận động tương tự vào năm 1973 (cho Ấn Độ) và 1979 (cho Campuchia). Trong thập niên 1980, bà tham gia tích cực vào phong trào ủng hộ hòa bình và diễn thuyết trong nhiều cuộc mít tinh. Năm 1999, trong nỗ lực phản đối cuộc ném bom của NATO vào Nam Tư năm 1999 mà Đức là một thành viên tham gia, bà tham gia ứng cử tổng thống Đức cho Đảng Xã hội Dân chủ (PDS, đến năm 2007 sáp nhập với đảng WASG trở thành Đảng Cánh tả Đức). Tuy nhiên bà đã thất bại trước ứng viên Johannes Rau của Đảng Dân chủ Xã hội Đức, chồng của cháu bà.
Viết sách "Hãy dẹp đi những chuyện trẻ con"
Uta Ranke-Heinemann tại [[Đại hội Giới trẻ Thế giới năm 2005.]]
Năm 1992, một tác phẩm khác của Uta-Ranke Heinemann là "Vâng và Amen: Sách hướng dẫn dành cho người nghi ngờ đức tin" (Nein und Amen. Anleitung zum Glaubenszweifel) đã được ấn hành. Cuốn sách này đã được dịch sang tiếng Anh với tên gọi "Hãy dẹp đi những chuyện trẻ con: sự sinh ra từ nữ trinh, ngôi mộ trống, và những chuyện cổ tích khác mà bạn không cần phải tin để có một đức tin sống động" (Putting away childish things: the Virgin birth, the empty tomb, and other fairy tales you don't need to believe to have a living faith).
Sau khi người chồng Edmund Ranke qua đời vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, vào năm 2002 Uta Ranke-Heinemann cho ra đời ấn phẩm tái bản của cuốn "Hãy dẹp đi những chuyện trẻ con" trong đó có chương cuối cùng được coi như là để tưởng niệm người chồng quá cố. Tên tiếng Đức của phiên bản 2002 là "Vâng và Amen: Lời từ biệt của tôi với Kitô giáo truyền thống" (Nein und Amen. Mein Abschied vom traditionellen Christentum). Trong tác phẩm "Hãy dẹp đi những chuyện trẻ con", Heinemann khẳng định bà vẫn là một tín đồ Kitô, nhưng điều này không ngăn cản việc bà nghi ngờ và phủ bác các tín điều cũ kỹ của nó, đồng thời ghi ơn sự dạy dỗ của nhà thần học Rudolf Bultmann dành cho bà:
Trong tác phẩm này, Uta Ranke-Heinemann đã nêu ra những "chuyện trẻ con" trong tín lý Kitô giáo truyền thống và yêu cầu phải dẹp bỏ. Ý kiến của bà có thể được tổng hợp thành 7 mục như sau:
Thánh kinh không phải do Thiên Chúa mạc khải mà là do con người viết ra.
Chúa Ba Ngôi là chuyện do con người tưởng tượng ra.
Chúa Giêsu là người phàm chứ không phải thần thánh.
Đức Mẹ Maria là mẹ của Giêsu chứ không phải mẹ của Chúa.
Thiên Chúa tạo ra thiên đường và trái đất, còn hỏa ngục là sản phẩm tưởng tượng của con người.
Ác quỷ và tội tổ tông không hề tồn tại.
Chuyện Giêsu chuộc tội cho con người bằng cách bị đóng đinh trên thập giá thực chất chỉ là chuyện hiến tế người theo đa thần giáo, cụ thể là dựa trên một tôn giáo thời tiền sử.
Tác phẩm
- Weisheit der Wüstenväter. Patmos, Düsseldorf 1958
- Der Protestantismus. Wesen und Werden. Mit einem Vorwort von Karl Rahner. Hans Driewer, Essen 1962
- Von christlicher Existenz. Hans Driewer, Essen 1964
- Das frühe Mönchtum. Seine Motive nach den Selbstzeugnissen. Hans Driewer, Essen 1964
- Antwort auf aktuelle Glaubensfragen. Hans Driewer, Essen 1965
- Gedanken zu Sonntagsepisteln. Ein Jahreszyklus. Hans Driewer, Essen 1967
- Christentum für Gläubige und Ungläubige. Hans Driewer, Essen 1968
- Die sogenannte Mischehe. Zu den kirchenrechtlichen Fragen der konfessionsverschiedenen Ehe. Paulus/Bitter, Recklinghausen 1968
- Widerworte. Friedensreden und Streitschriften. TORSO, Essen 1985, ISBN 3-924868-03-4 ** erweitert um Texte zu Maria und dem Zölibat: Goldmann, München 1987
- Eunuchen für das Himmelreich. Katholische Kirche und Sexualität. Hoffmann und Campe, Hamburg 1988 tái bản sách bìa mềm năm 2003: Heyne, München 2003, ISBN 3-453-16505-5. tái bản và cập nhật năm 2013:Eunuchen für das Himmelreich. Katholische Kirche und Sexualität von Jesus bis Benedikt XVI.. Heyne, München 2012, ISBN 978-3-453-16505-2. ** dịch sang tiếng Anh: Eunuchs for the kingdom of heaven: Women, sexuality, and the Catholic Church. translator Peter Heinegg. Garden City: Doubleday, 1990. ISBN 0-385-26527-1
- Nein und Amen. Anleitung zum Glaubenszweifel. Hoffmann und Campe, Hamburg 1992, ISBN 3-455-08457-5. tái bản năm 2002: Nein und Amen. Mein Abschied vom traditionellen Christentum. Heyne, München 2002, ISBN 3-453-21182-0. dịch sang tiếng Anh: Putting away childish things: the Virgin birth, the empty tomb, and other fairy tales you don't need to believe to have a living faith. translator Peter Heinegg. San Francisco: Harper, 1992. ISBN 0-06-066861-X.