✨USS Raymond (DE-341)

USS Raymond (DE-341)

USS Raymond (DE-341) là một tàu hộ tống khu trục lớp John C. Butler từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, nhưng là chiếc duy nhất được đặt theo tên Thiếu tá Hải quân Reginald Marbury Raymond (1912–1943), Hạm phó tàu ngầm , đã tử trận trong một chuyến tuần tra vào ngày 30 tháng 4, 1943 và được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân.

Lịch sử hoạt động

1944

Sau khi tiến hành chạy thử máy huấn luyện tại khu vực Bermuda từ ngày 10 tháng 5 đến ngày 5 tháng 6, 1944, Raymond đi đến Xưởng hải quân Boston để sửa chữa sau chạy thử máy, rồi lên đường đi Norfolk, Virginia vào ngày 18 tháng 6, nơi nó hoạt động như tàu huấn luyện cho Trung tâm Huấn luyện Norfolk. Sau đó nó lên đường, cùng với tàu chỉ huy đổ bộ băng qua kênh đào Panama vào ngày 1 tháng 7 và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 23 tháng 7. Nó được bảo trì trong xưởng tàu rồi thực hành huấn luyện cho đến ngày 11 tháng 8. Sau đó nó cùng Đội đặc nhiệm 32.2 lên đường vào ngày 12 tháng 8 để đi sang Guadalcanal thuộc quần đảo Solomon, đến nơi vào ngày 24 tháng 8, rồi tiếp tục hành trình vào ngày hôm sau, cùng các tàu hộ tống và tháp tùng bảo vệ cho tàu sân bay hộ tống đi đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty.

Đến nơi vào ngày 28 tháng 8, Raymond làm nhiệm vụ tuần tra và huấn luyện, rồi cùng Đội đặc nhiệm 77.1 khởi hành vào ngày 10 tháng 9 để hướng đến Morotai. Nó hoạt động trong thành phần bảo vệ cho các tàu sân bay hộ tống tham gia Trận Morotai, và tháp tùng hộ tống khi chúng tung ra các đợt không kích xuống các căn cứ của quân Nhật tại Đông Ấn thuộc Hà Lan vào ngày 15 tháng 9. Đến ngày 25 tháng 9, nó tách khỏi đội đặc nhiệm để quay trở lại Manus, rồi cùng Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.3, mà sau này trở nên nổi tiếng với mã gọi vô tuyến "Taffy 3", lên đường vào ngày 12 tháng 10 để hướng đến vịnh Leyte, Philippines.

Hải chiến vịnh Leyte

Vào ngày 25 tháng 10, Raymond đã tham gia vào Trận chiến ngoài khơi Samar, một phần của cuộc Hải chiến vịnh Leyte, khi Taffy 3 đối đầu với Lực lượng Trung tâm Nhật Bản dưới quyền Phó đô đốc Kurita Takeo. Sau khi thả một màn khói nhằm che khuất đơn vị đặc nhiệm, nó áp sát đối phương để tung ra một đợt tấn công bằng ngư lôi, phóng ba quả nhắm vào tàu tuần dương hạng nặng Haguro nhưng đều bị trượt; Haguro phản công, bắn 15 loạt đạn pháo 8-inch nhắm vào nó chỉ ở khoảng . Raymond thoát được và quay trở lại bảo vệ cho các tàu sân bay hộ tống cho đến 08 giờ 14 phút, khi nó lại tấn công các tàu tuần dương hạng nặng ChikumaTone bằng hải pháo 5-inch. Cho dù thiệt hại mà Raymond gây ra cho những tàu chiến đối phương chỉ là tối thiểu, lực lượng của đô đốc Kurita liên tục bị máy bay từ các đơn vị đặc nhiệm Taffy 1, 2 và 3 bắn phá, ném bom và thả ngư lôi tấn công.

Đến 08 giờ 40 phút, Raymond lại tham gia cùng tàu chị em tấn công hàng tàu tuần dương đối phương ở khoảng cách . Hỏa lực bắn nhanh từ các tàu hộ tống, kết hợp với việc liên tục bị máy bay Mỹ không kích, khiến đô đốc Kurita tin rằng ông đang đối đầu với thành phần chủ lực của Đệ Tam hạm đội, ông quyết định cho Lực lượng Trung tâm rút lui khỏi trận chiến. Taffy 3 đã thành công trong việc bảo vệ các tàu vận tải trong vịnh Leyte khỏi bị tiêu diệt với một giá đắt, khi mất tàu sân bay hộ tống , tàu hộ tống khu trục Samuel B. Roberts cùng các tàu khu trục và . Trưa hôm đó đơn vị còn phải tiếp tục chịu đựng các cuộc tấn công tự sát của máy bay Kamikaze đối phương; một chiếc đã đâm trúng và làm đắm lúc 11 giờ 25 phút. Raymond đã phục vụ như tàu cứu hộ chính, vớt được 108 người sống sót từ chiếc tàu sân bay hộ tống lâm nạn.

Sau khi chuyển 40 người bị thương nặng của St. Lo sang chiếc , một tàu LST được trang bị để sơ cứu thương binh, vào ngày hôm sau, Raymond lên đường đi Manus. Sau khi được sửa chữa và bảo trì nó lại lên đường vào ngày 7 tháng 11 tháp tùng các tàu sân bay hộ tống đi Trân Châu Cảng. Sau khi đến nơi vào ngày 18 tháng 11, nó tiếp tục được sửa chữa trước khi cùng Đơn vị Đặc nhiệm 12.5.2 khởi hành vào ngày 5 tháng 12. Tuy nhiên con tàu gặp trục trặc tại trục chân vịt bên mạn trái, nên buộc phải quay trở lại Oahu để sửa chữa trong ụ tàu cho đến ngày 26 tháng 12.

1945

Trận Iwo Jima

Cùng với Đơn vị Đặc nhiệm 16.8.1 rời vùng biển Hawaii vào ngày 29 tháng 12, Raymond đi đến Eniwetok thuộc quần đảo Marshall vào ngày 7 tháng 1, 1945. Nó lên đường ngay ngày hôm sau để hộ tống cho Đơn vị Đặc nhiệm 96.3.15 đi sang quần đảo Mariana, đi đến Saipan bốn ngày sau đó. Con tàu làm nhiệm vụ hộ tống vận tải và bảo vệ trong suốt tháng 1 và tháng 2 trong thành phần Đơn vị Đặc nhiệm 94.7.2, rồi cùng Đơn vị Đặc nhiệm 50.8.24 lên đường vào ngày 9 tháng 2 để phục vụ tiếp nhiên liệu cho Lực lượng Đặc nhiệm 58, vốn đang tham gia vào chiến dịch đổ bô lên Iwo Jima. Đảm nhiệm vai trò bảo vệ chống tàu ngầm cho đơn vị tiếp liệu, nó tham gia vào chiến dịch này cho đến ngày 3 tháng 3, khi nó rút lui về Ulithi ngang qua Guam. Đến ngày 21 tháng 3, nó lại cùng Đơn vị Đặc nhiệm 50.18.34 lên đường để tham gia vào cuộc đổ bô lên Okinawa.

Trận Okinawa

Trong suốt chiến dịch Okinawa, Raymond hoạt động trong thành phần hộ tống cho Đơn vị Đặc nhiệm 50.8.7, bao gồm các tàu tiếp dầu , , và , để phục vụ tiếp nhiên liệu cho Đệ Ngũ hạm đội hoạt động tại khu vực Okinawa. Nó thực hiện nhiều chuyến khứ hồi giữa Okinawa và Ulithi trong tháng 5 và tháng 6 để hộ tống cho đơn vị tiếp liệu này. Đến ngày 7 tháng 7, nó khởi hành trong thành phần Đội đặc nhiệm 30.8 để hộ tống các tàu chở dầu và tàu chở đạn, rồi hai ngày sau đó lại phục vụ canh phòng máy bay cho tàu sân bay hộ tống . Khi gia nhập trở lại Đội đặc nhiệm 30.8, nó hộ tống các tàu tiếp dầu , , , , và Tappahannock hướng đến Ulithi, đến nơi vào ngày 13 tháng 7. Nó lại tiếp tục cùng các tàu hộ tống khu trục và hộ tống một đoàn tàu vận tải quay trở lại Okinawa.

Sau chiến tranh

Raymond tiếp tục làm nhiệm vụ hộ tống vận tải giữa Okinawa và các căn cứ khác cho đến khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Nó rời Uluthi vào ngày 20 tháng 8 để đi sang Okinawa, rồi hộ tống Đơn vị Đặc nhiệm 95.5.76 quay trở lại Ulithi, và tách khỏi đoàn tàu vào ngày 25 tháng 8 để hộ tống chiếc tàu chở quân đi đến Saipan, rồi quay trở lại Ulithi. Sau một chuyến đi khứ hồi khác đến Okinawa, nó quay trở lại Ulithi vào ngày 9 tháng 9 trước khi lên đường cho hành trình quay trở về Hoa Kỳ.

Sau khi ghé đến Guam từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 11, Raymond cùng Đội hộ tống 63 hướng về quần đảo Hawaii, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 14 tháng 11 và ở lại đây trong ba ngày, rồi về đến San Pedro, California vào ngày 23 tháng 11. Con tàu được cho xuất biên chế vào ngày 24 tháng 1, 1947, và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương, neo đậu tại San Diego.

Chiến tranh Lạnh

1951 - 1955

Phần thưởng

Ngoài danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống do hoạt động dũng cảm trong Trận chiến ngoài khơi Samar, Raymond còn được tặng thưởng thêm năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Raymond_ (DE-341)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ
**USS _Chivo_ (SS-341)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên