✨USS Haverfield (DE-393)
USS Haverfield (DE-393/DER-393) là một tàu hộ tống khu trục lớp Edsall từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Hải quân James Wallace Haverfield (1917-1941), người từng phục vụ trên thiết giáp hạm và đã tử trận trong cuộc Tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12, 1941.
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo /50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu. Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 , và được trang bị radar SC dò tìm không trung và mặt biển. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ.
Haverfield được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Brown Shipbuilding ở Houston, Texas vào ngày 1 tháng 7, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 30 tháng 8, 1943, được đỡ đầu bởi bà George Tracy (Bessie) Haverfield, mẹ của thiếu úy Haverfield, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 29 tháng 11, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Tuần duyên Jerry A. Matthews, Jr.
Lịch sử hoạt động
1943 - 1947
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại vùng biển Caribe, Haverfield gia nhập một đội đặc nhiệm tìm-diệt tàu ngầm (HUK), được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống , để tuần tra dọc theo các tuyến hàng hải vượt Đại Tây Dương để truy tìm tàu ngầm U-boat Đức. Đội đặc nhiệm khởi hành từ Norfolk, Virginia vào ngày 26 tháng 2, 1944, và với sự giúp đỡ của tàu frigate Canada và máy bay của Không quân Hoàng gia Anh, họ đã tấn công bằng mìn sâu và hải pháo để đánh chìm tàu ngầm U-575 vào ngày 23 tháng 3 tại vị trí về phía Bắc quần đảo Azores, ở tọa độ ; 18 thành viên thủy thủ đoàn chiếc U-boat đã tử trận, và 37 người sống sót bị bắt làm tù binh, trong đó bảy người được Haverfield cứu vớt.
Haverfield tiếp tục tuần tra rồi đi đến Casablanca, Maroc thuộc Pháp, nơi nó trình diện để phục vụ cùng Tư lệnh Tiền phương biển Maroc và bàn giao số tù binh Đức vào ngày 18 tháng 3. Sau khi quay trở về Norfolk, nó lại khởi hành cho chuyến tuần tra thứ hai cùng với đội HUK cùa Bogue vào ngày 5 tháng 5. Phối hợp với một đội HUK khác được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống , vào ngày 13 tháng 5, họ đã đánh chìm được tàu ngầm Nhật Bản RO-501 (nguyên là chiếc U-1224 của Đức vừa chuyển giao cho Nhật Bản vào ngày 15 tháng 2, 1944) ở về phía Tây Bắc quần đảo Cape Verde, ở tọa độ .
Đi đến Casablanca vào ngày 29 tháng 5, Haverfield được lệnh ra khơi khẩn cấp ngay đêm hôm đó để trợ giúp tìm kiếm những người sống sót từ Block Island, sau khi chiếc tàu sân bay hộ tống trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-549 và đắm ngoài khơi quần đảo Canary. Haverfield đã cứu vớt một phi công trong số sáu máy bay tiêm kích của Block Island đang bay khi chiếc tàu sân bay đắm, nhưng không thể tìm thấy năm phi công còn lại. Sau đó nó tiếp tục hoạt động tuần tra tìm diệt tàu ngầm tại Đại Tây Dương cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu.
Haverfield tiếp tục đợt Tuần tra Market Time thêm năm tháng nữa; ngoài ra nó còn bắn hải pháo vào ngày 6 tháng 9 xuống một vị trí của đối phương trên đảo Phú Quốc trước khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 6 tháng 12. Con tàu có lượt hoạt động cuối cùng tại Việt Nam từ cuối tháng 4, 1967. Nó được cho xuất biên chế tại Trân Châu Cảng vào ngày 2 tháng 6, 1969, và rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân cùng ngày hôm đó. Con tàu cuối cùng bị bán cho hãng Chi Shun Hua Steel Co. Ltd. tại Cao Hùng, Đài Loan để tháo dỡ vào ngày 15 tháng 12, 1971.
Phần thưởng
Haverfield được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, rồi thêm năm Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động tại Việt Nam.