✨USS Forrestal (CV-59)
USS Forrestal (CV-59) (sau đó là CVA-59, rồi AVT-59), là một siêu hàng không mẫu hạm được đặt tên theo James Forrestal (1898-1949) Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên của Hoa Kỳ. Nhập biên chế năm 1955, nó là chiếc siêu hàng không mẫu hạm đầu tiên được hoàn tất, và là chiếc dẫn đầu của lớp tàu sân bay mang tên nó, vốn còn bao gồm , và . Không giống như lớp Nimitz tiếp nối, Forrestal và những chiếc cùng lớp có hệ thống động lực chạy bằng năng lượng thông thường. Nó vượt qua chiếc tàu sân bay Nhật Shinano thời Thế Chiến II như là chiếc tàu sân bay lớn nhất từng được chế tạo, và là chiếc đầu tiên được thiết kế để hỗ trợ cho thế hệ máy bay phản lực.
Con tàu được gọi theo cách thân mật "The FID", vì nó đặt theo tên vị Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên (FID viết tắt cho "First In Defense"); đây cũng là khẩu hiệu con tàu và được in trên phù hiệu con tàu. Nó còn có các tên lóng "USS Zippo" và "Forest Fire" hoặc "Firestal" do nhiều tai nạn hỏa hoạn từng xảy ra, mà nổi bật là sự cố hỏa hoạn năm 1967 vốn đã khiến 134 thủy thủ thiệt mạng và 161 người khác bị thương.
Forrestal đã phục vụ trong gần bốn thập niên tại Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và Thái Bình Dương, rồi xuất biên chế vào năm 1993. Những nỗ lực gây quỹ nhằm bảo tồn con tàu như một tàu bảo tàng đã không thành công, và đến tháng 2 năm 2014 nó được kéo đến Brownsville, Texas để tháo dỡ. Việc tháo dỡ hoàn tất vào tháng 12 năm 2015.
Thiết kế và chế tạo
thumb|left|Forrestal đang chạy thử máy ngoài biển, 29 tháng 9 năm 1955 Forrestal được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding vào ngày 14 tháng 7 năm 1952. Đang khi chế tạo, thiết kế của nó được sửa đổi nhiều lần; cầu tàu nâng lên và hạ xuống được, một thiết kế có nguồn gốc từ dự án tàu sân bay bị hủy bỏ, được thay bằng một đảo cấu trúc thượng tầng thông thường, và sàn đáp được cải biến thành dạng chéo góc và có máy phóng máy bay vận hành bằng hơi nước, những cải tiến dựa trên sáng kiến của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó được hạ thủy vào ngày 11 tháng 12 năm 1954 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 10 năm 1955.
Đặc tính thiết kế
Forrestal là tàu sân bay Hoa Kỳ đầu tiên được chế tạo với một sàn đáp chéo góc, máy phóng hơi nước và một hệ thống hỗ trợ hạ cánh quang học, thay vì được bổ sung thêm sau khi đã hạ thủy.
Thiết kế nguyên thủy, vốn lấy từ dự án tàu sân bay United States bị hủy bỏ, có tính năng đảo cấu trúc thượng tầng được hạ xuống bên dưới hầm tàu khi hoạt động không lực, nhưng được xem là quá phức tạp. Một giải pháp khác được xem xét là hai cột ăn-ten sẽ được hạ nghiêng xuống nhằm cho phép con tàu sân bay băng qua bên dưới cầu Brooklyn. Cột ăn-ten chính sẽ hạ nghiêng sang mạn và nằm trên sàn tàu, còn cột ăn-ten phụ sẽ hạ xuống phía đuôi tàu.
Lịch sử hoạt động
1956 - 1962
thumb|left|Forrestal vào năm 1955, không lâu sau khi nhập biên chế Hoạt động từ cảng nhà tại Norfolk, Virginia, Forrestal trải qua năm đầu tiên cho các nhiệm vụ huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi Virginia Capes và vùng biển Caribe; một nhiệm vụ quan trọng là huấn luyện các phi công sử dụng những thiết bị mới tiên tiến của nó. Trong giai đoạn này nó thường hoạt động tại vùng biển ngoài khơi Mayport, Florida, và vào ngày 7 tháng 11, 1956 đã khởi hành từ cho chuyến vượt Đại Tây Dương đầu tiên vào thời điểm đang diễn ra vụ Khủng hoảng kênh đào Suez; nó hoạt động tại phía Đông Đại Tây Dương, sẵn sàng tiến vào Địa Trung Hải nếu cần thiết. Con tàu quay trở về Norfolk vào ngày 12 tháng 12, và chuẩn bị tiếp liệu để khởi hành vào ngày 15 tháng 1, 1957 cho một lượt biệt phái sang hoạt động cùng Đệ lục Hạm đội tại Địa Trung Hải.
Giống như những chuyến biệt phái sau này sang Địa Trung Hải, Forrestal viếng thăm nhiều cảng để "biểu dương lực lượng" đồng thời tiếp đón lên tàu những quan chức quan trọng và công chúng viếng thăm. Đối với các giới chức quân sự, nó phô diễn khả năng mang sức mạnh không quân ra biển trong các cuộc tập trận quân sự. Con tàu quay trở về Norfolk vào ngày 22 tháng 7, 1957, và tiến hành thực tập ngoài khơi bờ biển North Carolina để chuẩn bị cho việc tham gia cuộc tập trận chung đầu tiên cùng với Khối NATO, Chiến dịch Strikeback tổ chức tại Bắc Hải. Hoạt động kéo dài từ ngày 3 tháng 9 đến ngày 22 tháng 10 này cũng đã đưa con tàu viếng thăm Southampton, Anh Quốc, đồng thời cũng là dịp thực hành việc phối hợp hoạt động chung giữa Hải quân Hoa Kỳ với các nước thành viên NATO.
Hỏa hoạn 1967
thumb|Tàu khu trục đang trợ giúp chữa cháy cho Forrestal
Vào tháng 6, 1967, Forrestal khởi hành từ Norfolk để làm nhiệm vụ tại vùng biển ngoài khơi Việt Nam, và tại vịnh Bắc Bộ trong vòng bốn ngày, máy bay thuộc Không đoàn Cường kích Tàu sân bay 17 (CVAG-17) đã tung ra khoảng 150 phi vụ xuống các mục tiêu đối phương tại Bắc Việt Nam. Vào ngày 29 tháng 7, đang khi chuẩn bị cho lượt tấn công khác, một quả rocket Zuni gắn trên một máy bay tiêm kích F-4 Phantom II đã bị kích hoạt do sốc điện và bắn trúng phía hông bên trái một máy bay cường kích A-4 Skyhawk. Vụ nổ làm vỡ thùng nhiên liệu 400-gallon gắn ngoài của chiếc Skyhawk, bắt lửa số nhiên liệu bị tung ra và gây ra hàng loạt vụ nổ và đám cháy khác. Tai nạn đã khiến 134 người thiệt mạng, 161 người bị thương, phá hủy 21 máy bay và tổn thất ước tính 72 triệu Đô-la. Một trong những người bị thương là Thiếu tá Hải quân John McCain, (sẽ trở thành tù binh chiến tranh, nghị sĩ và ứng viên tổng thống tương lai); ông cố thoát khỏi chiếc A-4 của mình đang bốc cháy và tìm cách trợ giúp một phi công khác khi một quả bom kích nổ.
1968 - 1975
thumb|left|Forrestal (phía trước) trên đường đi cùng tàu sân bay Anh trong Địa Trung Hải, 1973 Forrestal lên đường quay trở về Hoa Kỳ, cho tách khỏi Không đoàn CVAG-17 phối thuộc tại Mayport, Florida vào ngày 12 tháng 9, 1967, và về đến cảng nhà Norfolk hai ngày sau đó. Việc sửa chữa những hư hại do vụ hỏa hoạn được tiến hành tại Xưởng hải quân Norfolk từ ngày 19 tháng 9, 1967 đến ngày 8 tháng 4, 1968. Từ năm 1968 đến năm 1973, con tàu được phái sang hoạt động ba lượt tại vùng biển Địa Trung Hải. Nó cũng đã từng cấp tốc đi đến Tunisia cho những hoạt động cứu trợ những nạn nhân của vụ ngập lụt vùng thung lũng sông Medjerda gần Tunis.
Forrestal tiếp tục thực hiện thêm ba chuyến đi đến khu vực Địa Trung Hải từ năm 1973 đến năm 1975. Vào tháng 6, 1974, nó gửi 34 thủy thủ và hai sĩ quan đến Pháp, đại diện cho Hải quân Hoa Kỳ nhân kỷ niệm 30 năm cuộc Đổ bộ Normandy; lực lượng này đã tham gia duyệt binh tại Normandie vào ngày 6 tháng 6, 1974 dưới sự tham dự của Thống tướng hồi hưu Omar Bradley, và sau đó tại Cherbourg.
Không lâu sau cuộc tập trận, Forrestal lại tham gia một thử nghiệm chịu đựng chấn động đặc biệt. Thử nghiệm bao gồm việc kích nổ những khối chất nổ gần lườn tàu nhằm đánh giá khả năng chịu đựng sức chấn động trong cận chiến mà vẫn có thể tiếp tục hoạt động. Forrestal kỷ niệm lễ bạc (25 năm) vào tháng 10, 1980. Nó tiếp tục lên đường vào tháng 3, 1981 cho lượt phục vụ thứ 16 tại Địa Trung Hải, rồi quay trở về Mayport vào ngày 15 tháng 9, 1981.
1981–1987
thumb|Forrestal trên đường đi, vào khoảng năm 1982 Vào ngày 2 tháng 3, 1981, Forrestal bắt đầu lượt phục vụ thứ 17 tại Địa Trung Hải. Khi xảy ra mâu thuẫn về tên lửa đất đối không giữa Syria và Israel vào cuối tháng 4, chiếc tàu sân bay đã phải duy trì tình trạng sẵn sàng tác chiến trong suốt 53 ngày liên tục trên biển, đề phòng mâu thuẫn có thể leo thang thành cuộc xung đột cục bộ. Vào ngày 3 tháng 8, con tàu được phái đến tăng cường cho tàu sân bay hoạt động tại khu vực vịnh Sidra, ngoài khơi bờ biển Libya. Sau sự kiện hai máy bay Libya bắn tên lửa nhắm vào máy bay F-14 Tomcat xuất phát từ Nimitz, và bị bắn rơi do tên lửa đối không bắn trả vào ngày 19 tháng 8, Forrestal tham gia tuần tra ngăn chặn máy bay Libya, chiếm hơn 60% số lượng máy bay đối phương bị ngăn chặn. Rời vùng biển Địa Trung Hải, con tàu tiếp tục đi sang khu vực Bắc Đại Tây Dương, băng qua vòng Bắc Cực để tham gia cuộc Tập trận Ocean Venture '81 của Khối NATO trước khi quay trở về cảng nhà.
Forrestal trải qua một đợt đại tu trong khuôn khổ Chương trình kéo dài tuổi thọ phục vụ (SLEP: Service Life Extension Program). Nó chuyển cảng nhà đến Xưởng hải quân Philadelphia, Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 18 tháng 1, 1983, bắt đầu đợt nâng cấp kéo dài 28 tháng và tiêu tốn 550 triệu Đô-la Mỹ, nhằm mục đích giúp chiếc tàu sân bay có thể phục vụ thêm 15 đến 20 năm. Trong quá trình nâng cấp, phần lớn các thiết bị chính được tháo dỡ để thay thế hoặc tân trang. Sau khi hoàn tất, nó rời xưởng tàu Philadelphia vào ngày 20 tháng 5, 1985, quay trở lại cảng nhà cũ Mayport bốn ngày sau đó, và bắt đầu chuẩn bị cho lượt bố trí hoạt động tiếp theo.
Rời Mayport vào ngày 2 tháng 6, 1986, Forrestal khởi hành cho lượt phục vụ thứ 19 tại Địa Trung Hải. Nó dành phần lớn thời gian trong lượt hoạt động này tuần tra tại vùng không phận quốc tế ngoài khơi Tripoli, Libya, và tham gia cuộc Tập trận Sea Wind huấn luyện phối hợp với Hải quân Ai Cập, và cuộc Tập trận Display Determination phối hợp tấn công và huấn luyện cơ động không chiến tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Chuyến viếng thăm New Orleans
Trong năm 1987, Forrestal trải qua một giai đoạn chuẩn bị, bao gồm việc huấn luyện ôn tập và chuẩn nhận hoạt động tàu sân bay cho phi công, trước khi hoạt động trong sáu tuần lễ tại khu vực Bắc Đại Tây Dương. Trong đợt này, nó tham gia cuộc tập trận Ocean Safari '87, và hoạt động cùng các đơn vị khác thuộc khối NATO tại các vũng biển ở Na Uy. và trong bốn ngày neo đậu tại New Orleans, nó đã tiếp đón khoảng 40.000 khách thăm quan.
1988–1993
thumb|Forrestal băng qua kênh đào Suez vào tháng 8, 1988. Thủy thủ đoàn đang xếp chữ 108, thể hiện 108 ngày liên tục hoạt động trên biển. Forrestal bắt đầu lượt biệt phái hoạt động thứ 20 từ ngày 25 tháng 4, 1988, khi nó băng qua kênh đào Suez để đi sang vùng biển Ả Rập hỗ trợ cho Chiến dịch Earnest Will tại khu vực. Con tàu đã trải qua 108 ngày liên tục hoạt động trên biển trước khi ghé vào cảng, và trong giai đoạn kéo dài năm tháng rưỡi nó đã hoạt động tại ba đại dương với thời gian ở lại cảng tổng cộng chỉ có 15 ngày. Nó được tặng thưởng Đơn vị Tuyên dương Anh dũng Hải quân do thành tích thể hiện trong đợt phục vụ này, và quay trở về Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 10. thumb|left|Forrestal băng qua bên dưới [[cầu Verrazano-Narrows để tham gia Tuần lễ Hạm đội 1989.]] Trong hai tháng cuối của năm đó, ngoài các hoạt động huấn luyện và tập trận thường lệ, Forrestal hỗ trợ cho hoạt động của Tổng thống George H. W. Bush khi tham dự Cuộc họp thượng đỉnh Malta cùng với nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachov. Tổng thống đã viếng thăm con tàu trong ba giờ, và chiếc tàu sân bay cũng tham gia các cuộc tập trận Harmonie Sud, Tunisian Amphibious và National Week. Nó quay trở về Mayport vào ngày 12 tháng 4, 1990 sau khi đã viếng thăm chín cảng thuộc bảy quốc gia khác nhau; và sau giai đoạn bảo trì, tiếp liệu là nghỉ ngơi sau chuyến đi, nó vào ụ tàu tại Mayport để được sửa chữa từ ngày 14 tháng 5 đến ngày 27 tháng 8, 1990. Nó quay trở lại vào ngày 21 tháng 11. Con tàu cùng thủy thủ đoàn quay trở lại để viếng thăm New Orleans vào tháng 5, 1992. Nó đi đến Philadelphia vào ngày 14 tháng 9 để bắt đầu một lượt đại tu rộng rãi kéo dài trong 14 tháng và chi phí hết 157 triệu Đô-la, trước khi đảm nhận vai trò huấn luyện. Tuy nhiên vào đầu năm 1993 Hải quân quyết định cho Forrestal xuất biên chế mà không chỉ định một tàu sân bay huấn luyện chuyên trách.
Xuất biên chế và số phận
thumb|left|Forrestal (trái) và (phải) tại Căn Cứ Không lực Hải quân Newport, [[Middletown, Rhode Island, năm 2006, chờ đợi để được định đoạt số phận.]] Sau 37 năm phục vụ, cuối cùng Forrestal được cho xuất biên chế tại Philadelphia vào ngày 11 tháng 9, 1993, đồng thời được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân cùng ngày hôm đó. Sau khi rút đăng bạ, con tàu được được tháo dỡ nhiều linh kiện để phục vụ cho hạm đội tàu sân bay còn đang hoạt động. Hai mỏ neo nặng 30 tấn được chuyển cho chiếc , trong khi bốn chân vịt mới bằng đồng được trang bị cho chiếc , vốn đang được chế tạo.