✨USS Enterprise (CVN-65)

USS Enterprise (CVN-65)

USS Enterprise (CVN-65), trước đây từng mang ký hiệu CVA(N)-65, là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ hiện đã xuất biên chế. Nó là chiếc tàu sân bay đầu tiên chạy bằng năng lượng hạt nhân, và là chiếc tàu chiến thứ tám của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này. Giống như con tàu tiền nhiệm huyền thoại tiền nhiệm thời Thế Chiến II, nó mang biệt danh "Big E". Với chiều dài , vào lúc ngừng hoạt động, Enterprise là con tàu cũ thứ ba còn trong biên chế, chỉ sau chiếc tàu frigate chạy buồm và . Nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 1 tháng 12, 2012, và chính thức xuất biên chế vào ngày 3 tháng 2, 2017, sau hơn 55 năm phục vụ. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân cùng ngày hôm đó.

Cái tên USS Enterprise hiện đã được dành để đặt cho một tàu sân bay lớp Gerald R. Ford trong tương lai đang được đóng, chiếc .

Thiết kế

thumb|left|Enterprise vào năm 1967, cho thấy dàn ăn-ten [[SCANFAR của con tàu]] Enterprise dự định là chiếc đầu tiên của một lớp sáu tàu sân bay chạy năng lượng hạt nhân đầu tiên, nhưng việc bị đội giá quá mức chi phí chế tạo khiến cho việc đóng những chiếc còn lại bị hủy bỏ. Do chi phí chế tạo quá cao, Enterprise được hạ thủy và đưa vào hoạt động mà không có các dàn phóng tên lửa RIM-2 Terrier phòng không theo như kế hoạch. Chúng không bao giờ được trang bị, và hệ thống phòng thủ của con tàu chỉ bao gồm ba dàn phóng tên lửa phòng thủ điểm RIM-7 Sea Sparrow, có tầm bắn ngắn hơn. Những nâng cấp sau đó đã bổ sung thêm hai dàn phóng Sea Sparrow và ba hệ thống phòng thủ tầm cực gần Phalanx CIWS Mk 15. Sau này một bệ CIWS được tháo dỡ và bổ sung hai dàn phóng RIM-116 Rolling Airframe Missile, mỗi dàn có 21 ống phóng.

Enterprise là tàu sân bay duy nhất được trang bị nhiều hơn hai lò phản ứng hạt nhân, Nó cũng là tàu sân bay duy nhất có đến bốn bánh lái, nhiều hơn hai chiếc so với những tàu sân bay thông thường, và có một lườn tàu tương tự như của một tàu tuần dương.

Enterprise cũng có một hệ thống radar mảng pha dưới tên gọi SCANFAR, vốn dự định sẽ theo dõi nhiều mục tiêu trên không tốt hơn so với ăn-ten radar kiểu xoay thông thường. Hệ thống SCANFAR bao gồm hai bộ radar AN/SPS-32 và AN/SPS-33. AN/SPS-32 là radar dò tìm trên không và chỉ thị mục tiêu tầm xa do hãng Hughes phát triển cho Hải quân Hoa Kỳ. AN/SPS-32 hoạt động phối hợp cùng với AN/SPS-33, vốn sử dụng mảng pha vuông để theo dõi mục tiêu 3 chiều, và tích hợp vào cùng một hệ thống. SCANFAR chỉ được trang bị trên hai tàu chiến: Enterprise và tàu tuần dương ; chúng tiêu thụ một lượng điện năng lớn và gây một áp lực lớn lên hệ thống phát điện của các con tàu.

Kỹ thuật của AN/SPS-32 dựa trên nền tảng bóng đèn điện tử chân không, và hệ thống đòi hỏi phải sửa chữa thường xuyên. SPS-32 là kiểu radar mảng pha với tầm xa phát hiện lên đến đối với những mục tiêu lớn, và với những mục tiêu cỡ máy bay tiêm kích là . Những ăn-ten radar mảng pha này, được tháo dỡ vào khoảng năm 1980, đã khiến cho đảo cấu trúc thượng tầng có hình dạng vuông rất đặc trưng. Con tàu thực hiện chuyến hải hành đầu tiên vào ngày 12 tháng 1, 1962 để thực hiện thử máy trong ba tháng, đồng thời tiến hành một loạt các thử nghiệm và thực hành huấn luyện nhằm xác định mọi khả năng của một siêu hàng không mẫu hạm chạy năng lượng nguyên tử.

1961 - 1969

Vào ngày 20 tháng 2, 1962, Enterprise phục vụ như trạm quan trắc và đo lường phục vụ cho chuyến bay Friendship 7 thuộc Chương trình Mercury, lần đầu tiên đưa một người Mỹ, Trung tá John H. Glenn, Jr., lên quỹ đạo quanh trái đất. Sang tháng 8, nó gia nhập cùng Đệ Lục hạm đội để hoạt động tại vùng biển Địa Trung Hải, rồi quay trở về Norfolk, Virginia vào tháng 10. nhằm ngăn chặn việc vận chuyển thiết bị quân sự đến Cuba, và gây áp lực đòi hỏi phía Liên Xô tháo dỡ các tên lửa này. Năm tàu sân bay đã được huy động vào lực lượng hải quân phong tỏa hàng hải chung quanh Cuba, bao gồm Enterprise (trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 135), , , và , được máy bay đặt căn cứ trên đất liền hỗ trợ. Đến ngày 28 tháng 10, vụ khủng hoảng được giải quyết theo con đường thương lượng hòa bình, sau khi Liên Xô công khai việc tháo dỡ các tên lửa khỏi Cuba và Hoa Kỳ bí mật đồng ý rút bỏ những tên lửa đạn đạo tầm trung PGM-19 Jubiter khỏi Ý và Thổ Nhĩ Kỳ. Vài phút sau đó, thiết bị cũng được thử nghiệm để phóng lên một máy bay cường kích Grumman A-6A Intruder. Lợi điểm trong việc áp dụng thiết bị mới này là sẽ rút ngắn thời gian cần chuẩn bị giữa hai lần phóng.

Trong giai đoạn 1963-1964, Enterprise thực hiện lượt biệt phái thứ hai và thứ ba sang phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại vùng biển Địa Trung Hải. Trong chuyến đi thứ ba, nó tham gia Chiến dịch Sea Orbit, lực lượng đặc nhiệm chạy toàn bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên trên thế giới, bao gồm các tàu tuần dương và , tất cả hình thành nên một đoàn tàu thực hiện chuyến đi vòng quanh thế giới. Trong quá trình di chuyển vào ngày 25 tháng 2, 1964, một thủy thủ trên chiếc tàu buôn Phần Lan bị chấn thương do té ngã trong khi con tàu đang ở khu vực phụ cận vịnh Souda, Hy Lạp. Chiếc tàu sân bay đã đáp trả lời kêu gọi cấp cứu khi cử một bác sĩ phẩu thuật đi sang Verna Paulin bằng máy bay trực thăng. Đến tháng 10, 1964, nó về đến xưởng tàu Newport News cho đợt đại tu và tái nạp năng lượng đầu tiên. Dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân James L. Holloway III là một thủy thủ đoàn gồm khoảng 350 sĩ quan và 4.800 thủy thủ. Không đoàn Tàu sân bay CVW-9 dưới quyền Trung tá Hải quân F. T. Brown gồm có bốn liên đội đặt căn cứ tại vùng bờ Tây: Liên đội Tiêm kích VF-92 do Trung tá Hải quân E. A. Rawsthorne chỉ huy và Liên đội Tiêm kích VF-96 do Trung tá Hải quân R. D. Norman chỉ huy lái những chiếc F-4B Phantom II; Liên đội Cường kích VA-93 do Trung tá Hải quân A. J. Monger chỉ huy và Liên đội Cường kích VA-94 do Trung tá Hải quân O. E. Krueger chỉ huy lái những chiếc A-4C Skyhawk. Ngoài ra còn có ba liên đội khác đặt căn cứ tại vùng bờ Đông: Liên đội Cường kích VA-36 do Trung tá Hải quân J. E. Marshall chỉ huy và Liên đội Cường kích VA-76 do Trung tá Hải quân J. B. Linder chỉ huy lái những chiếc A-4C Skyhawk; và Liên đội Trinh sát Tấn công RVAH-7 do Trung tá Hải quân K. Enny chỉ huy lái những chiếc RA-5C Vigilante. Vai trò Tư lệnh Đội tàu sân bay 3 được Chuẩn đô đốc Miller bàn giao cho Chuẩn đô đốc T. J. Walker vào ngày 16 tháng 2 trong một buổi lễ, khi đô đốc Miller trao tặng huân chương cho hơn 100 phi công và sĩ quan.

Enterprise thả neo tại Căn cứ Hải quân vịnh Subic vào chiều tối ngày 8 tháng 12, 1966, Vụ nổ đã kích hoạt một loạt các vụ nổ khác và đám cháy khắp sàn tàu. Việc sửa chữa hoàn tất vào ngày 1 tháng 3, và Enterprise quay trở lại hoạt động tại khu vực Tây Thái Bình Dương.

Nam Á và Đông Nam Á

left|thumb|Enterprise đang được tiếp tế trên đường đi từ [[tàu chở dầu hạm đội tại biển Đông, năm 1973.]] Tại Việt Nam, Enterprise, và đã tung ra tổng cộng 2.001 phi vụ cho đến ngày 30 tháng 7, 1971. Các hoạt động không kích bị ngắt quãng trong tháng 7, khi các tàu sân bay phải cơ động di chuyển để né tránh các cơn bão: Harriet, Kim và Jean. Cường độ các cuộc không kích gia tăng trong tháng tiếp theo, chủ yếu nhắm vào các vị trí tập trung quân đối phương và hỗ trợ cho hoạt động của máy bay trực thăng. Từ tháng 8 đến tháng 11, con tàu hoạt động tại Trạm Yankee trong vịnh Bắc Bộ. Liên Xô cũng phản ứng lại bằng cách gửi tàu ngầm và tàu chiến xuất phát từ cảng Vladivostok để theo dõi hoạt động của Lực lượng Đặc nhiệm 74 cho đến tháng 1, 1972.

Từ ngày 18 tháng 12, 1972, nhằm gây sức ép lên đối phương trong cuộc đàm phán hòa bình tại Paris, Hoa Kỳ tái tục việc ném bom về phía Bắc vĩ tuyến 20 tại Bắc Việt Nam trong khuôn khổ Chiến dịch Linebacker II. Enterprise và các tàu sân bay khác tiến hành thả thủy lôi phong tỏa Hải Phòng và các cảng biển khác, đồng thời tập trung đánh phá các điểm bố trí tên lửa đất đối không và pháo phòng không, doanh trại và kho xăng dầu đối phương, các xưởng tàu và các ga đầu mối đường sắt. Các phi vụ tấn công chiến thuật của hải quân trong khuôn khổ Chiến dịch Linebacker II, tổng cộng 705 phi vụ, chủ yếu tập trung tại vùng duyên hải chung quanh Hà Nội và Hải Phòng, trong đó riêng Enterprise từ ngày 18 tháng 12 ngày 22 tháng 12 đã thực hiện 119 phi vụ, bị giới hạn rất nhiều do hoàn cảnh thời tiết xấu. Kết thúc cuộc tập trận, con tàu đã viếng thăm Hobart, Tasmania trong tháng 11, trở thành chiếc tàu chiến Hoa Kỳ đầu tiên thả neo tại cảng Hobart kể từ đầu thập niên 1920.

Vào tháng 2, 1977, Tổng thống Idi Amin của Uganda có những phát biểu công khai xúc phạm đến Hoa Kỳ và bắt giữ công dân Hoa Kỳ đang ở tại Uganda. Việc này xảy ra nhiều tháng sau sự kiện lực lượng Israel thực hiện cuộc đột kích sân bay Entebbe để giải cứu các con tin bị nhóm khủng bố Palestine bắt giữ. Enterprise cùng các tàu hộ tống lúc đó có kế hoạch quay về cảng nhà sau lượt hoạt động kéo dài bảy tháng, và đã rời cảng Mombasa khi nó được lệnh chuyển hướng để ở lại khu vực và hoạt động ngoài khơi bờ biển Đông Phi trong khoảng một tuần. Đội Thủy quân Lục chiến phối thuộc cùng một không đoàn bắt đầu chuẩn bị cho một chiến dịch giải cứu và di tản các con tin Hoa Kỳ, nhưng Amin cuối cùng đã phóng thích các con tin. Con tàu sau đó băng qua Ấn Độ Dương với tốc độ cao nhằm bắt kịp lịch trình viếng thăm cảng sau cùng tại Căn cứ Không lực Hải quân Cubi Point, Philippines, trước khi về đến Alameda. Sự kiện trùng hợp là, George Takei, diễn viên đóng vai Hikari Sulu, người lái tàu của chiếc tàu không gian viễn tưởng USS Enterprise (NCC-1701) trong loạt phim truyền hình Star Trek, lúc đó cũng có mặt trên tàu như là vị khách danh dự của Hải quân. Cho dù những tai nạn mắc cạn hay va chạm thường đưa đến việc chấm dứt sự nghiệp của các hạm trưởng tàu chiến Hải quân Mỹ, vị hạm trưởng vào lúc đó, Đại tá Hải quân Robert J. Kelly, người đã được chọn để thăng lên hàm Thiếu tướng Hải quân, vẫn tiếp tục phục vụ và sau này lên đến bậc Đô đốc bốn sao và đảm trách cương vị Tổng tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương (1991-1994). thumb|left|Enterprise (phải) hoạt động cùng các tàu sân bay (trên trái) và (dưới trái) ngoài khơi [[Alaska trong cuộc Tập trận FLEETEX 83.]] Vào năm 1985, Enterprise bắt đầu huấn luyện nhằm chuẩn bị cho lượt phục vụ thứ mười một tại vùng biển Tây Thái Bình Dương. Trong một lượt huấn luyện bay vào đêm 2 tháng 11 và với hạm trưởng, Đại tá Hải quân Robert L. Leuschner, Jr., trên cầu tàu, nó va phải đá Bishop tại Cortes Bank ngoài khơi Nam California, làm hỏng phần ngoài vỏ tàu bởi một vết cắt dài và mất một chân vịt.

Vào năm 1986, Enterprise lên đường cho lượt phục vụ thứ mười hai tại vùng biển Tây Thái Bình Dương. Khởi hành vào ngày 15 tháng 1, nó dẫn đầu Đội tác chiến Foxtrot, bao gồm , , , , , , và , hướng thẳng đến Ấn Đô Dương sau các chặng dừng tại Hawaii, vịnh Subic và Singapore. Vào ngày 28 tháng 4, nó trở thành chiếc tàu sân bay chạy năng lượng hạt nhân đầu tiên băng qua kênh đào Suez, tiến vào Địa Trung Hải để thay phiên cho chiếc Coral Sea, vốn đang cùng tàu sân bay trực chiến ngoài khơi bờ biển Libya. Có mặt trở lại tại Địa Trung Hải sau hơn 22 năm, Enterprise đã tham gia vào Chiến dịch El Dorado Canyon nhằm ném bom xuống Libya. thumb|Một máy bay [[McDonnell Douglas F/A-18 Hornet|F/A-18A Hornet hạ cánh trên Enterprise vào năm 1987.]]

Phần thưởng

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Enterprise_ (CVN-65)**, trước đây từng mang ký hiệu **CVA(N)-65**, là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ hiện đã xuất biên chế. Nó là chiếc tàu sân bay đầu tiên chạy bằng
**_USS Gerald R. Ford (CVN-78)_** là tàu đầu tiên của lớp tàu sân bay _Gerald R. Ford_ thuộc nhóm siêu mẫu hạm của Hải Quân Hoa Kỳ. Khi được công bố bởi Hải Quân Hoa
**Hải quân Hoa Kỳ** (viết tắt: **USN**) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ và là một trong tám lực lượng vũ trang chuyên nghiệp của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2018, Hải
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
Chiếc **A-6 Intruder** là một kiểu máy bay cường kích hai động cơ, cánh gắn giữa do Grumman Aerospace chế tạo. Được đưa vào sử dụng từ năm 1963 đến năm 1997, chiếc Intruder được
**Khinh hạm** **lớp Fridtjof Nansen** (còn được gọi tắt là **lớp Nansen**) là lớp khinh hạm mang tên lửa dẫn đường chủ lực của Hải quân Hoàng gia Na Uy (RNN). Lớp tàu được đặt
**Grumman F-14 Tomcat** **(Mèo đực)** là một loại máy bay siêu âm cánh cụp cánh xòe 2 động cơ 2 chỗ ngồi. Trong suốt thời gian phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ (1972-2006), nó
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
**Phi đoàn Chiến đấu số 1** (_Fighter Squadron 1_ - **VF-1**) là một đơn vị máy bay chiến đấu thuộc Hải quân Hoa Kỳ, được biết đến với biệt danh "Wolfpack" (bầy sói). Hiện tại,