✨USS Dennis J. Buckley (DD-808)
USS Dennis J. Buckley (DD/DDR-808) là một tàu khu trục lớp Gearing được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, nhưng là chiếc duy nhất được đóng, đặt theo tên thủy thủ Dennis J. Buckley, Jr. (1920–1943), người từng phục vụ trên tàu khu trục , vốn tử trận trong một hoạt động chặn bắt tàu vượt phong tỏa Đức tại Nam Đại Tây Dương và được truy tặng Huân chương Ngôi sao bạc. Hoàn tất khi chiến tranh đã sắp kết thúc, con tàu tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh và Chiến tranh Việt Nam cho đến khi ngừng hoạt động năm 1973 và bị tháo dỡ một năm sau đó.
Thiết kế và chế tạo
Dennis J. Buckley được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bath Iron Works Corp. ớ Bath, Maine vào ngày 24 tháng 7 năm 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 12 năm 1944; được đỡ đầu bởi bà D. J. Buckley, mẹ thủy thủ Buckley, và nhập biên chế vào ngày 2 tháng 3 năm 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân K. C. Walpole.
1961 - 1964
Dennis J. Buckley lên đường vào ngày 27 tháng 2, 1961 cho lượt bố trí tiếp theo tại khu vực Tây Thái Bình Dương, kéo dài trong bảy tháng. Nó ghé qua Trân Châu Cảng vào ngày 6 tháng 3 trước khi tiếp tục đi ngang qua Midway trên đường đến Yokosuka, Nhật Bản. Nó ở lại cảng này từ ngày 17 tháng 3 đến ngày 4 tháng 4, rồi hoạt động tại vùng biển Nhật Bản và đi đến Hong Kong vào ngày 18 tháng 3. Nó lên đường vào ngày 22 tháng 4 để tham gia cuộc Tập trận "Pony Express" tại biển Đông ngoài khơi bờ biển Borneo, kéo dài trong ba tuần lễ với sự tham dự của hải quân các nước Anh, Australia, New Zealand và Hà Lan. Nó thả neo tại vịnh Subic, Philippines vào ngày 13 tháng 5, nghỉ ngơi trong một tuần rồi tham gia cuộc tập trận chống tàu ngầm phối hợp cùng Hải quân Philippines trong ba ngày. Con tàu ở lại vịnh Subic thêm một tuần trước khi lên đường đi Okinawa.
1969
Dennis J. Buckley tham gia cuộc Tập trận Bell Jangl Strike EX 2-69 tại vùng bờ Tây từ ngày 13 đến ngày 20 tháng 3, 1969; rồi được bảo trì và tiến hành những hoạt động thường lệ tại chỗ từ cảng San Diego trước khi chuẩn bị cho lượt biệt phái hoạt động tiếp theo tại Viễn Đông. Nó lên đường vào ngày 2 tháng 8, gia nhập cùng Đệ Thất hạm đội vào ngày 21 tháng 8, rồi phục vụ hộ tống chống tàu ngầm và canh phòng máy bay cho tàu sân bay tại Trạm Yankee từ ngày 29 tháng 8 đến ngày 24 tháng 9. Chiếc tàu khu trục được điều sang nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu (SAR), cũng như hộ tống hỗ trợ cho tàu làm nhiệm vụ PIRAZ (Positive Identification Radar Advisory Zone: Khu vực Nhận diện và Tư vấn Radar Chủ động) từ ngày 3 đến ngày 23 tháng 10. Nó đi đến Hong Kong để làm nhiệm vụ tàu căn cứ từ ngày 18 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12, rồi quay trở lại Trạm Yankee tiếp tục phục vụ hộ tống chống tàu ngầm và canh phòng máy bay, nhưng lần này là cùng tàu sân bay , từ ngày 5 tháng 12, đến ngày 22 tháng 12.
1970
Bước sang năm 1970, Dennis J. Buckley làm nhiệm vụ hỗ trợ hải pháo cho cuộc chiến trên bộ tại Nam Việt Nam từ ngày 4 đến ngày 22 tháng 1, rồi khởi hành vào ngày 31 tháng 1 cho hành trình quay trở về Hoa Kỳ. Về đến San Diego vào ngày 12 tháng 2, con tàu được nghỉ ngơi, bảo trì và tiến hành những hoạt động thường lệ dọc theo vùng bờ Tây, rồi được đại tu theo định kỳ tại Xưởng hải quân Hunters Point, San Francisco, California từ ngày 10 tháng 7 đến ngày 16 tháng 10. Hoàn tất công việc trong xưởng tàu, nó tiến hành chạy thử máy và hoạt động huấn luyện ôn tập tại khu vực San Diego từ ngày 16 tháng 11 đến ngày 18 tháng 12.
1971
Sau khi được thanh tra và chuẩn bị, Dennis J. Buckley khởi hành từ San Diego vào ngày 5 tháng 2, 1971 cho lượt biệt phái hoạt động tiếp theo tại Viễn Đông. Nó có chặng dừng tại Trân Châu Cảng, nơi nó cùng các tàu khu trục và gia nhập Hải đội Khu trục 1, rồi lên đường hướng đến vịnh Subic, có ghé qua Midway và Guam để tiếp nhiên liệu. Đi đến vùng biểnPhilippines vào ngày 27 tháng 2, nó độc lập lên đường hai ngày sau đó để đi sang vùng bờ biển Việt Nam làm nhiệm vụ hỗ trợ hải pháo, luân phiên với phục vụ hộ tống chống tàu ngầm và canh phòng máy bay cho tàu sân bay cũng như nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu (SAR) và hỗ trợ PIRAZ. Hoàn thành lượt phục vụ vào ngày 16 tháng 7, con tàu đảm trách vai trò soái hạm cho Hải đội Khu trục 1, rồi cùng với Hanson rời vịnh Subic cho hành trình quay trở về San Diego, California. Floyd B. Parks gia nhập cùng hải đội tại Guam, và trong chặng tiếp theo đi đến Trân Châu Cảng họ được một tàu chở dầu hạm đội tiếp nhiên liệu trên đường đi; cuối cùng nó về đến San Diego, California vào ngày 4 tháng 8.
Ở lại cảng nhà, Dennis J. Buckley được nghỉ ngơi, bảo trì và huấn luyện. Vào ngày 30 tháng 9, 1971, nó chuyển giao vai trò soái hạm Hải đội Khu trục 1 cho tàu khu trục vừa quay về từ Viễn Đông. Đến ngày 12 tháng 10, nó rời San Diego để đi đến đảo San Clemente thực hành huấn luyện hỗ trợ hải pháo, và sang ngày 18 tháng 10 lại tiếp nối huấn luyện phòng không và tác xạ. Trên đường đi đến vịnh San Francisco, lúc 11 giờ 00 ngày 22 tháng 10, nó đã trợ giúp cho chiếc tàu chở hàng Đan Mạch Benny Skou bị lật nghiêng do mắc cạn và sắp đắm, cứu vớt được 14 người bao gồm hai phụ nữ. Sau năm ngày nghỉ ngơi tại San Francisco, nó tháp tùng Hancock và phục vụ canh phòng máy bay cho chiếc tàu sân bay từ ngày 27 tháng 10 đến ngày 4 tháng 11. Con tàu được nghỉ ngơi cho đến ngày 29 tháng 11, khi nó phục vụ như một tàu huấn luyện chống tàu ngầm trong hai tuần, rồi trải qua hai giai đoạn từ ngày 29 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12 và từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 12 phục vụ cho việc chuẩn nhận chống tàu ngầm cho sĩ quan tàu khu trục và huấn luyện sĩ quan cấp thấp.
1972 - 1973
1972
Rời cảng nhà San Diego vào ngày 10 tháng 1, 1972, Dennis J. Buckley hoạt động huấn luyện ôn tập, thực hành chống tàu ngầm và tiếp nhiên liệu trên đường đi cho đến ngày 14 tháng 1. Sau một tuần lễ được sửa chữa, nó lại lên đường vào ngày 24 tháng 1 để thực hành tác xạ tại khu vực hoạt động Nam California, và từ ngày 27 tháng 1 đã neo đậu cặp bên mạn tàu tiếp liệu khu trục để được bảo trì trong ba tuần. Nó lại lên đường vào ngày 6 tháng 3 để thực tập huấn luyện, bao gồm việc phục vụ canh phòng máy bay cho tàu sân bay Ticonderoga vào ngày 8 tháng 3, cho đến khi quay trở về cảng vào ngày 10 tháng 3. Đến ngày 7 tháng 4, thủy thủ đoàn được thông báo sẽ được phái sang Viễn Đông sớm hơn hai tháng so với kế hoạch, do việc phía Bắc Việt Nam mở đợt tổng tấn công các vị trí tại Nam Việt Nam. Chiếc tàu khu trục khởi hành vào ngày 10 tháng 4.
Cùng với các tàu khu trục và tháp tùng, Dennis J. Buckley lần lượt ghé qua Trân Châu Cảng và Guam vào các ngày 15 và 23 tháng 4 tương ứng, trước khi đến Căn cứ vịnh Subic, Philippines, nơi con tàu được bảo trì và chuẩn bị lần sau cùng trước khi đi sang vùng chiến sự. Nó độc lập lên đường vào ngày 28 tháng 4, làm nhiệm vụ hỗ trợ hải pháo dọc bờ biển Việt Nam cho đến ngày 29 tháng 5, khi nó chuyển sang hộ tống bảo vệ cho tàu tuần dương , và sau đó là hai ngày hoạt động canh phòng máy bay cho tàu sân bay . Nó quay trở lại nhiệm vụ hỗ trợ hải pháo từ ngày 4 tháng 6, rồi lại phục vụ canh phòng máy bay cho tàu sân bay trong các ngày 11 và 12 tháng 6.
Quay trở lại vịnh Subic, Philippines vào ngày 13 tháng 6, Dennis J. Buckley được bảo trì cặp bên mạn tàu tiếp liệu khu trục trong một tuần lễ, giai đoạn mà thủy thủ đoàn được nghỉ phép sau hơn 40 ngày hoạt động liên tục tại vùng chiến sự. Công việc bảo trì hoàn tất vào ngày 20 tháng 6, khi chiếc tàu khu trục lên đường trở sang vùng biển Việt Nam. Nó hoạt động hỗ trợ hải pháo dọc bờ biển từ ngày 21 tháng 6 đến ngày 24 tháng 7, di chuyển chậm với tốc độ trong khi chỉ cách bờ vài dặm, và bắn pháo quấy phá, can thiệp hay hỗ trợ cho những hoạt động tác chiến trên bộ. Cuối cùng nó rời vùng chiến sự vào ngày 25 tháng 7 và đi đến Singapore vào ngày 28 tháng 7, nơi thủy thủ có dịp nghỉ ngơi trong một tuần.
Sau khi được sửa chữa tại Xưởng tàu Sembawang, Singapore, Dennis J. Buckley rời cảng vào ngày 5 tháng 8 để quay trở lại vùng chiến sự, lần này là tại bờ biển phía Tây Nam Việt Nam giáp với vịnh Thái Lan; nó đã hoạt động hỗ trợ hải pháo dọc bờ biển từ ngày 7 tháng 8 đến ngày 7 tháng 9. Con tàu tháp tùng tàu sân bay trong hành trình đi sang vịnh Subic, Philippines vào các ngày 10 và 11 tháng 9, nơi thủy thủ đoàn được nghỉ ngơi và con tàu được bảo trì cho đến ngày 20 tháng 9. Đợt phục vụ hỗ trợ hải pháo tiếp theo tương đối ngắn, chỉ kéo dài đến ngày 30 tháng 9, khi nó được điều đến vịnh Bắc Bộ cho một nhiệm vụ đặc biệt trong mười ngày. Chiếc tàu khu trục được nghỉ ngơi tại Hong Kong từ ngày 14 đến ngày 20 tháng 10, một kỳ nghỉ phép đặc biệt khi thủy thủ được gặp mặt người thân bay từ Hoa Kỳ đến trên chuyến bay thuê riêng trọn chuyến (charter flight).
Dennis J. Buckley đi đến vịnh Subic, Philippines để chất dỡ đạn dược và chuẩn bị cho hành trình dài; nó cùng các tàu khu trục và rời vùng biển Philippines vào ngày 23 tháng 10 để hướng về nhà. Thời tiết xấu suốt trong chặng đường đi, và sau khi đến Guam vào ngày 26 tháng 10, lộ trình được thay đổi do một cơn bão tại khu vực lân cận, và hải đội sẽ bỏ qua Midway để đi thẳng đến khu vực quần đảo Hawaii. Đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 3 tháng 11, hải đội lại tiếp tục hành trình ngay ngày hôm sau, và về đến San Diego vào ngày 10 tháng 11.
1973
Neo đậu lại cảng San Diego, California trong những tháng đầu năm 1973, Dennis J. Buckley trải qua những lượt thanh tra cùng những hoạt động bảo trì tại cảng thường lệ. Kết quả những cuộc thanh tra cho thấy cấu trúc con tàu đã xuống cấp theo năm tháng, không còn phù hợp để tiếp tục phục vụ, và nó được đề nghị ngừng hoạt động. Quyết định được thông qua vào ngày 27 tháng 4, 1973, và trong suốt tháng 5 và tháng 6 mọi hàng tiếp liệu, đạn dược được chất dỡ khỏi tàu, những thiết bị có giá trị cũng được tháo dỡ để tái sử dụng trên những con tàu khác.
Dennis J. Buckley chính thức được cho xuất biên chế tại San Diego, California vào ngày 2 tháng 7, 1973, đồng thời cũng được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân. Con tàu được bán cho hãng Levin Metals Corp. vào ngày 29 tháng 4, 1974 để tháo dỡ với trị giá 314.699 Đô-la Mỹ. Con tàu được kéo đến Richmond, California vào ngày 27 tháng 5 và việc tháo dỡ được tiến hành từ ngày 3 tháng 7, 1974.