U-86 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được tám chuyến tuần tra, đánh chìm được ba tàu buôn tổng tải trọng , đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác. Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại Đại Tây Dương, U-86 bị các tàu khu trục Anh và đánh chìm về phía Đông quần đảo Azores vào ngày 29 tháng 11, 1943.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Phân lớp VIIB của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIA được mở rộng. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8-276 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIB bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.
Chế tạo
U-86 được đặt hàng vào ngày 9 tháng 6, 1938,
1942
Chuyến tuần tra thứ hai
U-86 khởi hành từ căn cứ Brest vào ngày 27 tháng 12, 1941 cho chuyến tuần tra thứ hai, Hai ngày sau đó, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Hy Lạp Dimitios G. Thermiotis vốn bị tách khỏi Đoàn tàu SC 63, ở vị trí khoảng về phía Đông Bắc St. Johns, Newfoundland.
Nó kết thúc chuyến tuần tra vào ngày 15 tháng 2.
Chuyến tuần tra thứ ba
Trong chuyến tuần tra thứ ba kéo dài từ ngày 25 tháng 3 đến ngày 26 tháng 5,
Chuyến tuần tra thứ tư
Khởi hành vào ngày 2 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ tư, Chiếc tàu ngằm quay về Brest vào ngày 18 tháng 9.
Chuyến tuần tra thứ năm
Trong chuyến tuần tra thứ năm kéo dài từ ngày 31 tháng 10, 1942 đến ngày 7 tháng 1, 1943,
1943
Chuyến tuần tra thứ sáu
U-86 xuất phát từ căn cứ Brest vào ngày 24 tháng 2, 1943 cho chuyến tuần tra thứ sáu, Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ Brest vào ngày 16 tháng 4.
Chuyến tuần tra thứ bảy
Trong chuyến tuần tra thứ bảy kéo dài từ ngày 8 tháng 7 đến ngày 11 tháng 9,
Chuyến tuần tra thứ tám - Bị mất
U-86 khởi hành từ căn cứ Brest vào ngày 11 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ tám, cũng là chuyến cuối cùng. Trong Đại Tây Dương ở vị trí về phía Đông quần đảo Azores, vào ngày 29 tháng 11, nó đang theo dõi Đoàn tàu MKS-31/SL-140 khi bị các tàu khu trục Anh và phát hiện và tấn công bằng mìn sâu. U-86 bị đánh chìm tại tọa độ . Toàn bộ 50 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu đều tử trận.
"Bầy sói" tham gia
U-86 từng tham gia mười bầy sói:
Zieten (7 – 22 tháng 1, 1942)
Wolf (13 – 31 tháng 7, 1942)
Natter (6 – 8 tháng 11, 1942)
Westwall (8 tháng 11 - 16 tháng 12, 1942)
Neuland (4 – 13 tháng 3, 1943)
Dränger (14 – 20 tháng 3, 1943)
Seewolf (21 – 30 tháng 3, 1943)
Không tên (11 – 29 tháng 7, 1943)
Schill 2 (17 – 22 tháng 11, 1943)
Weddigen (22 – 29 tháng 11, 1943)
Tóm tắt chiến công
U-86 đã đánh chìm được ba tàu buôn tổng tải trọng , đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác
**_U-86_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-86_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1916, phục vụ trong Thế Chiến I và đầu hàng năm 1918
**_U-87_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-65_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-43_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-333_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-456_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-249_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó chỉ kịp
**_U-280_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó chỉ kịp
**_U-347_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-396_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-419_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ thực
**_U-478_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó chỉ thực
**USS _Niblack_ (DD-424)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến Hoa Kỳ đầu tiên tấn công
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**USS _Bogue_ (CVE-9)**, (nguyên mang ký hiệu **AVG-9**, sau đó lần lượt đổi thành **ACV-9**, **CVE-9**, và **CVHP-9**), là một tàu sân bay hộ tống, là chiếc dẫn đầu của lớp _Bogue_ của Hải quân
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**USS _Bulmer_ (DD-222/AG-86)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**HMS _Prince of Wales_ (53)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _King George V_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc từng hoạt động vào giai đoạn mở màn của Chiến tranh Thế giới
**USS _Thompson_ (DD-627/DMS-38)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**Hải quân Liên Xô** () là nhánh hải quân của Lực lượng vũ trang Liên Xô. Thường được gọi là **Hạm đội Đỏ**, Hải quân Liên Xô là lực lượng có số lượng tàu chiến
**Chiến dịch Gratitude**, hay còn được gọi là **Cuộc không kích** **ở** **Biển Đông,** là một chiến dịch không kích được tiến hành bởi Đệ Tam Hạm đội của Hải quân Hoa Kỳ trên Mặt
**Rijeka** (tiếng Croatia: _Rijeka_, tiếng Ý và tiếng Hungary: _Fiume_, tiếng địa phương Chakavia: _Reka_ hoặc _Rika_, tiếng Slovenia: _Reka_, tiếng Đức: _Sankt Veit am Flaum_ hoặc _Pflaum_ (cả lịch sử)) là cảng biển chính