✨U-59 (tàu ngầm Đức) (1938)

U-59 (tàu ngầm Đức) (1938)

U-59 là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-59 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được mười ba chuyến tuần tra tại Bắc Hải và chung quanh quần đảo Anh, đánh chìm 17 tàu buôn cùng hai tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng 44.994 tấn, trước khi quay trở lại vai trò huấn luyện tại vùng biển Baltic. U-59 cuối cùng bị đánh đắm tại Kiel trong kế hoạch Regenbogen vào tháng 5, 1945.

Thiết kế và chế tạo

Phân lớp Type IIC là một phiên bản lớn hơn của Type IIB dẫn trước. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có . Chúng có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính . Các con tàu có thể lặn đến độ sâu . Chúng đạt được tốc độ tối đa trên mặt nước và khi lặn, với tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường , và ở tốc độ khi lặn.

Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.

U-59 được đặt hàng vào ngày 17 tháng 6, 1937. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 5 tháng 10, 1937, hạ thủy vào ngày 12 tháng 10, 1938, và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 4 tháng 3, 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Harald Jürst.

Lịch sử hoạt động

1939

U-59 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện được mười ba chuyến tuần tra tại khu vực Bắc Hải và chung quanh quần đảo Anh. Nó đã đánh chìm 17 tàu buôn tổng tải trọng và hai tàu tàu chiến phụ trợ tải trọng , cùng gây hư hại cho một tàu chở dầu và một tàu buôn khác bị tổn thất toàn bộ.

Chuyến tuần tra thứ nhất và thứ hai

U-59 xuất phát từ Helgoland vào ngày 29 tháng 8 cho chuyến tuần tra đầu tiên tại Bắc Hải ngay cả khi Thế Chiến II chưa chính thức nổ ra; nó đi đến Kiel vào ngày 11 tháng 9 mà không bắt gặp mục tiêu nào. Trong chuyến tuần tra thứ hai, nó đã đánh chìm tàu đánh cá Anh Lynx II ở vị trí về phía Tây quần đảo Shetland vào ngày 28 tháng 10, rồi chiếc tàu Anh St. Nidian cùng ngày hôm đó, và chiếc vào ngày 30 tháng 10.

Chuyến tuần tra thứ ba và thứ tư

Chuyến tuần tra thứ ba của U-59 không đem lại kết quả nào. Nó khởi hành từ Wilhelmshaven vào ngày 14 tháng 12 cho chuyến tuần tra thứ tư, và chỉ hai ngày sau đó đã lần lượt đánh chìm chiếc tàu buôn Thụy Điển Lister ở vị trí ngoài khơi Newcastle, rồi đến chiếc tàu buôn Na Uy Glitfriejell ở vị trí ngoài khơi St Abbs, Scotland. Chỉ một ngày sau đó nó lại đánh chìm chiếc tàu buôn Đan Mạch Bogø ở vị trí về phía Đông đảo May. U-59 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ Kiel.

1940

Chuyến tuần tra thứ năm và thứ sáu

Xuất phát từ Kiel vào ngày 14 tháng 1, 1940, U-59 không thành công trong chuyến tuần tra thứ năm và về đến Wilhelmshaven vào ngày 22 tháng 1. Trong chuyến tiếp theo dọc bờ biển phía Đông quần đảo Anh, nó đánh chìm chiếc tàu buôn Anh vào ngày 1 tháng 2, và các tàu buôn Anh CreofieldPortlet một ngày sau đó.

Chuyến tuần tra thứ bảy và thứ tám

Chuyến tuần tra thứ bảy không đem lại kết quả, nhưng trong chuyến tiếp theo là chuyến tuần tra dài nhất đến 38 ngày, U-59 đánh chìm tàu buôn Na Uy Navarra vào ngày 6 tháng 4. Nó bị một tàu ngầm tấn công vào ngày 5 tháng 5, khi một quả ngư lôi băng qua cách đuôi tàu 100 mét. Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ Kiel vào ngày 7 tháng 5.

Chuyến tuần tra thứ chín

U-59 đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Thụy Điển Sigyn vào ngày 1 tháng 8, ở vị trí về phía Tây Oban ở bờ biển phía Tây Scotland. Sau chuyến tuần tra này, U-59 chuyển căn cứ đến Bergen, Na Uy vừa bị chiếm đóng, đến nơi vào ngày 4 tháng 8.

Chuyến tuần tra thứ mười

Trong chuyến tuần tra thứ mười, U-59 chuyển căn cứ từ Bergen đến căn cứ vừa mới chiếm được tại cảng Lorient, bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp. Trên đường đi, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Anh Betty (2.339 tấn) ở vị trí về phía Tây đảo Tory, Ireland vào ngày 14 tháng 8.

Chuyến tuần tra thứ mười một, mười hai và mười ba

Trong chuyến tuần tra thứ mười một, vào ngày 30 tháng 8, U-59 đã phóng ngư lôi tấn công và gây hư hại cho hai chiếc San Gabriel (4.943 tấn) và Anadara (8.009 tấn) ở vị trí về phía Tây Scotland. Sau chuyến tuần tra thứ mười hai không có kết quả, nó chuyển căn cứ từ Lorient trở lại Bergen; rồi trong chuyến tuần tra cuối cùng, nó đi dọc bờ biển Na Uy để quay về căn cứ Kiel vào ngày 20 tháng 10.

1941 - 1945

Từ tháng 10, 1940, U-59 quay trở lại vai trò huấn luyện tại vùng biển Baltic cho đến hết chiến tranh. Nó được điều về Chi hạm đội U-boat 22 vào ngày 1 tháng 1, 1941. Đến ngày 1 tháng 7, 1944, nó được điều sang Chi hạm đội U-boat 19. Vào giai đoạn kết thúc xung đột, U-59 ngừng hoạt động vào tháng 4, 1945. Theo dự định của kế hoạch Regenbogen, nó bị đánh đắm tại Kiel vào ngày 3 tháng 5, 1945 để tránh lọt vào tay lực lượng Đồng Minh. Xác tàu đắm được trục vớt và tháo dỡ sau chiến tranh.

Tóm tắt chiến công

U-59 đã đánh chìm 17 tàu buôn tổng tải trọng cùng hai tàu chiến phụ trợ , gây tổn thất toàn bộ một tàu buôn và gây hư hại một tàu buôn

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-59_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-59_**: * là một hạ thủy năm 1916, phục vụ trong Thế Chiến I và bị đánh chìm năm 1917 **
**_U-96_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-106_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-105_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**USS _Jacob Jones_ (DD-130)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh
**HMS _Birmingham_ (C19)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp Town (1936) từng phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều
Chiếc **Consolidated B-24 Liberator** **(Người giải phóng)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ Hoa Kỳ do hãng Consolidated Aircraft chế tạo. Nó được sản xuất với số lượng nhiều hơn
**Boeing B-17 Flying Fortress** **(Pháo đài bay)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Hoa Kỳ (USAAF) và được đưa vào sử dụng vào cuối
File:2018 Events Collage.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Lễ khai mạc Thế vận hội mùa đông 2018 tại PyeongChang, Hàn Quốc; Biểu tình nổ ra sau Vụ ám sát Jamal Khashoggi; Các cuộc
**Trận Hà Lan** () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới
**Hải quân Liên Xô** () là nhánh hải quân của Lực lượng vũ trang Liên Xô. Thường được gọi là **Hạm đội Đỏ**, Hải quân Liên Xô là lực lượng có số lượng tàu chiến
**Tập đoàn Samsung** hay **Samsung** (Tiếng Hàn: 삼성, Romaja: Samseong, Hanja: 三星; Hán-Việt: Tam Tinh - 3 ngôi sao) là một tập đoàn đa quốc gia của Hàn Quốc có trụ sở chính đặt tại
**_Schutzstaffel_** (**SS**; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
Đường Buchanan ở trung tâm thành phố, nhìn về phía nam **Glasgow** (tiếng Gael Scotland: _Glaschu_) là thành phố lớn nhất trong số 32 đơn vị hành chính của Scotland, nằm bên sông Clyde ở
**Hà Nam** (), là một tỉnh ở miền trung của Trung Quốc. Tên gọi tắt là _Dự_ (豫), đặt tên theo Dự châu, một châu thời Hán. Tên gọi Hà Nam có nghĩa là _phía
**Trường Sa** (tiếng Hoa giản thể: 长沙; tiếng Hoa phồn thể: 長沙; pinyin: _Chángshā_; Wade-Giles: _Chang-sha_) là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Hồ Nam, thuộc vùng Nam Trung Bộ