✨U-209 (tàu ngầm Đức)

U-209 (tàu ngầm Đức)

U-209 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được tổng cộng bảy chuyến tuần tra, đánh chìm được ba tàu buôn tổng tải trọng đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn khác tải trọng . Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-209 bị mất tích tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương sau ngày 7 tháng 5, 1943, có thể do gặp tai nạn khi lặn sau khi bị hư hại nặng bởi mìn sâu thả từ máy bay Canada vào ngày 4 tháng 5.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-209 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 10, 1939, Sang ngày hôm sau, chiếc tàu ngầm tiếp tục phải lặn sâu ẩn nấp sau khi bị các tàu quét mìn và phát hiện và tấn công với 30 quả mìn sâu được thả xuống. U-209 vẫn thoát được được an toàn và đi đến căn cứ Kirkenes ở phía cực Bắc Na Uy vào ngày 1 tháng 4, kết thúc chuyến tuần tra.

Sau khi chuyển đến cảng Narvik trong tháng 10, U-209 khởi hành từ đây vào ngày 6 tháng 11 cho chuyến tuần tra tiếp theo về phía Tây Bắc đảo Bear, Na Uy. Nó không đánh chìm được mục tiêu nào, và quay trở về Narvik vào ngày 10 tháng 12. Chiếc tàu ngầm sau đó đi đến cảng Bergen và sau đó quay trở về Kiel trong tháng 12, nơi con tàu được đại tu. Đến ngày 4 tháng 5, một thủy phi cơ PBY Canso thuộc Liên đội 5 Không quân Hoàng gia Canada tại tấn công nó ở vị trí về phía Nam mũi Farewell, Greenland, tại tọa độ , gây nhiều hư hại bao gồm hệ thống liên lạc vô tuyến. U-209 phải nhờ tàu ngầm U-954 chuyển tiếp báo cáo thiệt hại về bộ chỉ huy vào ngày 6 tháng 5, và được lệnh rút lui về căn cứ. Sau đó nó hoàn toàn mất liên lạc, có thể đã đắm do gặp tai nạn trong khi lặn. Toàn bộ 46 thành viên thủy thủ đoàn của U-209 đã tử trận cùng con tàu.

"Bầy sói" tham gia

U-209 từng tham gia chín bầy sói:

  • Zieten (23 – 29 tháng 3, 1942)
  • Eiswolf (29 – 31 tháng 3, 1942)
  • Robbenschlag (7 – 14 tháng 4, 1942)
  • Blutrausch (15 tháng 4, 1942)
  • Greif (16 – 29 tháng 5, 1942)
  • Boreas (19 tháng 11 - 7 tháng 12, 1942)
  • Meise (25 – 27 tháng 4, 1943)
  • Star (27 tháng 4 - 4 tháng 5, 1943)
  • Fink (4 – 6 tháng 5, 1943)

Tóm tắt chiến công

U-209 đánh chìm được ba tàu buôn tổng tải trọng đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn khác tải trọng :

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-209_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-570_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**_U-513_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-257_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-452_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
nhỏ|300x300px|Tầu ngầm tấn công [[HMCS Windsor|HMCS _Windsor_ của Hải quân Hoàng gia Canada.]] Một **Tàu ngầm tấn công** (**attack submarine** hoặc **hunter-killer submarine**) là một loại tàu ngầm được thiết kế để tấn công và
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**Trận chiến cuối cùng của thiết giáp hạm _Bismarck**_ diễn ra vào ngày 26-27 tháng 5 năm 1941 tại vùng biển Đại Tây Dương, cách khu vực Brest của Pháp khoảng về phía tây, giữa
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Thảm hoạ Chernobyl** (Tiếng Ukraina: _Чорнобильська катастрофа_; Tiếng Nga: _Чернобыльская катастрофа_) là một vụ tai nạn hạt nhân xảy ra vào Thứ bảy ngày 25 tháng 4 năm 1986 khi nhà máy điện hạt nhân
**_Schutzstaffel_** (**SS**; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là