✨U-131 (tàu ngầm Đức) (1941)

U-131 (tàu ngầm Đức) (1941)

U-131 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và đánh chìm được một tàu buôn tải trọng trước khi bị tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh đánh chìm trong Đại Tây Dương về phía Tây Nam Bồ Đào Nha vào ngày 17 tháng 12, 1941.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Thiết kế của tàu ngầm Type IXC có kích thước hơi nhỉnh hơn so với phân lớp Type IXB dẫn trước. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel MAN M 9 V 40/46 siêu tăng áp 9-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert 2 GU 345/34 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có sáu ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 22 quả ngư lôi . Tàu ngầm Type IX trang bị một hải pháo SK C/32 với 110 quả đạn, một pháo phòng không SK C/30 và hai pháo phòng không C/30. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 44 thủy thủ.

Chế tạo

U-131 được đặt hàng vào ngày 7 tháng 8, 1939, Ở vị trí khoảng về phía Nam Iceland vào ngày 6 tháng 12, nó phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buôn Anh Scottish Trader , vốn bị tụt lại phía sau Đoàn tàu SC-56 và đang trong hành trình từ Philadelphia đi Liverpool.

Đến ngày 17 tháng 12, ở lối ra vào phía Tây của eo biển Gibraltar, trong khi đang theo dõi Đoàn tàu HG-76 trong thành phần bầy sói Seeräuber, U-131 bị một máy bay tiêm kích Grumman Martlet xuất phát từ tàu sân bay hộ tống phát hiện. Chiếc tàu ngầm buộc phải lặn xuống ẩn nấp, trong khi các tàu chiến thuộc Đội hộ tống 36 Hải quân Hoàng gia Anh dưới quyền Trung tá Hải quân Frederic John Walker, bao gồm tàu khu trục , các tàu khu trục hộ tống , và cùng tàu corvette , truy lùng.

Bị sonar của Stanley phát hiện và bị Pentstemon thả mìn sâu tấn công, U-131 buộc phải trồi lên mặt nước do bị rò rỉ khí chlorine từ ắc-quy. Không thể lặn, chiếc U-boat tìm cách chạy thoát khi đi hết tốc độ trên mặt nước, và đã bắn rơi một máy bay Martlet khiến viên phi công thiệt mạng. Tuy nhiên tàu chiến của Đội hộ tống 36 bắn trúng đích nhiều phát, và khi nhận ra tình hình đã trở nên vô vọng, thủy thủ của U-131 đã bỏ tàu sau khi tự đánh đắm chiếc U-boat tại tọa độ . Toàn bộ 47 thành viên thủy thủ đoàn của U-131 đều sống sót và bị bắt làm tù binh chiến tranh.

"Bầy sói" tham gia

U-131 từng tham gia một bầy sói:

  • Seeräuber (14 – 17 tháng 12, 1941)

Tóm tắt chiến công

U-131 đã đánh chìm được một tàu buôn tải trọng :

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
_U-131_ là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-131_**: * là một tàu ngầm nhưng chưa hoàn tất khi Thế Chiến I kết thúc, và bị tháo dỡ năm
**U-boat Type IX** là một lớp tàu ngầm do Hải quân Đức Quốc xã thiết kế vào các năm 1935 và 1936 như những tàu ngầm vượt đại dương, dành cho những chuyến tuần tra
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**USS _Buchanan_ (DD-131)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó được chuyển cho Hải quân Hoàng Gia
**HMS _Harvester_ (H19)** là một tàu khu trục lớp H, nguyên được Hải quân Brazil đặt hàng cho hãng Vickers-Armstrongs dưới tên _Jurua_ vào cuối thập niên 1930, nhưng được Hải quân Hoàng gia Anh
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
**USS _McCalla_ (DD-253)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó được chuyển
**Junkers Ju 88** là một loại máy bay được sản xuất bởi Tập đoàn Junkers và xuất xưởng lần đầu tiên vào giữa năm 1930. Junkers Ju 88 được Luftwaffe sử dụng trong Thế chiến
**USS _Bulmer_ (DD-222/AG-86)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**USS _Barker_ (DD-213)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**USS _Parrott_ (DD-218)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
Chiếc **Me 210** là một kiểu máy bay tiêm kích hạng nặng/máy bay cường kích của Không quân Đức trong Thế Chiến II được phát triển bởi Messerschmitt. Chiếc Me 210 được thiết kế để
**Rijeka** (tiếng Croatia: _Rijeka_, tiếng Ý và tiếng Hungary: _Fiume_, tiếng địa phương Chakavia: _Reka_ hoặc _Rika_, tiếng Slovenia: _Reka_, tiếng Đức: _Sankt Veit am Flaum_ hoặc _Pflaum_ (cả lịch sử)) là cảng biển chính