✨Triều Tiên Nhân Tông

Triều Tiên Nhân Tông

Triều Tiên Nhân Tông (chữ Hán: 朝鮮仁宗; Hangul: 조선 인종; 10 tháng 3, 1515 – 8 tháng 8, 1545) là vị vua thứ 12 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ năm 1544 đến năm 1545, là một trong những vị Quốc vương trị vì ngắn nhất trong lịch sử Triều Tiên. Trong suốt thời kì trị vì, ông không tự thân làm gì đáng kể vì người mẹ kế là Văn Định Vương hậu đã nắm quyền nhiếp chính. Việc làm đáng kể của ông là điều tra và minh oan cho Triệu Quang Tổ.

Tiểu sử

Triều Tiên Nhân Tông tên thật là Lý Hổ (李峼; 이호), ấu danh Ức Mệnh (億命), sinh ngày 25 tháng 2 (tức ngày 10 tháng 3 dương lịch), là con trai thứ tư của Triều Tiên Trung Tông Lý Dịch với người vợ thứ hai Chương Kính vương hậu Doãn thị, em gái của Doãn Nhâm (윤임, 尹任). Ngay sau khi ông được sinh ra vài ngày, mẹ ông đã mất do bệnh hậu sản. Do là con vợ cả, ông được gọi là Nguyên tử và là người chính thống thừa kế ngai vàng.

Đương thời Nhân Tông được đánh giá là một bậc thánh quân vì lòng hiếu thảo, đức tính rộng rãi, đời sống tình dục có chừng mực, hoàn toàn mang hình ảnh của một bậc hiền triết. Tuy nhiên đáng tiếc là do mắc bệnh lạ mà ngài ở ngôi mới 8 tháng hơn đã thăng hà, cũng là vị Đại vương có thời gian tại vị ngắn nhất trong lịch sử Triều Tiên.

Năm ông lên 2 tuổi, Văn Định vương hậu nhập cung đích để nuôi dưỡng Nguyên tử còn nhỏ tuổi. Dù là con thứ 4 nhưng là người con của một chính thất, ông đã được phong làm Thế tử vào năm 1520, nạp Thế tử tần (sau là Nhân Thánh vương hậu) năm 1524 và thừa kế ngai vàng vào năm 1544, khi ấy ông đã 29 tuổi.

Nhà vua có tham vọng và mong muốn cải tổ triều chính đã hủ hoá dù trong thời thời trị vì của cha mình là Triều Tiên Trung Tông đã cố cải cách nhưng không được. Tuy nhiên, sau khi lên ngôi ông đã nhanh chóng cho điều tra lại vụ án của Triệu Quang Tổ (Jo Gwang Jo) thời vua cha Trung Tông và đã minh oan cho Triệu Quang Tổ.

Triều Tiên Nhân Tông liên tục đau ốm và qua đời năm 1545. Khoảng ngày 1 tháng 7 (tức ngày 7 tháng 8 dương lịch), Nhân Tông qua đời mà không có người kế vị, tại Minh Chính điện (明政殿) của Xương Khánh cung. Cái chết của ông dấy lên nghi vấn là do gia tộc họ Doãn của Văn Định vương hậu và các anh em của bà ta.

Ông được an táng tại Hiếu lăng (孝陵).

Mối quan hệ với kế mẫu

Theo Mộ chí của Nhân Tông, từ năm 3 tuổi ngài đã biết đọc chữ hiểu nghĩa nên Trung Tông vô cùng yêu thương và xem trọng ngài. Vì vậy, phụ vương sớm đã thiết lập Thị giảng viện tuyển chọn các sư phó và quan viên dạy dỗ cho ngài. Trung Tông còn đích thân viết những lời răn rồi dạy cho ngài, Nhân Tông luôn ghi lòng tạc dạ không quên. Sau khi trưởng thành còn tận tay chép nó lên bình phong để cảnh tỉnh bản thân. Đến năm Nhân Tông được 6 tuổi (1520), Trung Tông sắc phong ngài làm Thế tử và năm sau thì nhà Minh ban cáo mệnh sắc phong. Năm Trung Tông thứ 17 (1522), Thế tử được tiến hành lễ Gia quan và cho nhập học ở Thành Quân quán.

Đến năm Trung Tông thứ 19 (1524), ngài đón con gái của Phác Dung (박용,朴墉) làm Thế tử tần (tức Nhân Thánh Vương hậu [인성왕후,仁聖王后]). Nhân Tông tính tình ôn hòa, hiếu thảo có thừa và quan hệ giữa các huynh đệ cũng vô cùng cung kính hữu lễ. Việc này thể hiện trong sự kiện "Chước thử chi biến" và "Giả tác nhân đầu", dù Thế tử là người bị yểm bùa chú nhưng ngài vẫn khẩn xin phụ vương phục vị cho Phúc Thành Quân cũng như hai vị Ông chúa là con của Kính tần Phác thị. Mặc dù Phúc Thành Quân đã bị ban chết từ trước nhưng việc khôi phục tước vị cũng là việc an ủi cho vong linh của ngài.

Ngoài ra, Nhân Tông còn biết kiềm chế đời sống tình dục. Khi ở Đông cung, ngài cho đuổi hết tất cả cung nữ mặc áo quần sặc sỡ và không cho phép bất kỳ nữ nhân nào lại gần mình. Đây được cho là Nhân Tông đã thấm nhuần sâu sắc tư tưởng đạo học. Chính vì tính cách này của ngài mà kế mẫu Văn Định Vương hậu mới có thể ngấm ngầm bày mưu dẫn đến bản thân phải chết trẻ.

Sinh mẫu của Nhân Tông là Chương Kính Vương hậu sau khi hạ sinh ngày được 7 ngày thì qua đời nên có thể nói là Nhân Tông được lớn lên trong vòng tay của Văn Định Vương hậu. Tuy nhiên bà được đánh là một người phụ nữ tâm cơ nên luông không vừa ý với người con của vợ trước này.

Theo dã sử, Văn Định Vương hậu đã không ít lần cố ý mưu sát Nhân Tông. Khi ngài còn ở ngôi Thế tử, có một đêm ngài cùng Tần cung đang ngủ thì bỗng Đông Cung phát hỏa. Tuy nhiên, Thế tử không hốt hoảng mà lại đánh thức Tần cung bảo bà ra ngoài trước. Còn bản thân thì ngồi yên trong đám cháy và la lên lửa thiêu chết ta rồi. Thế tử nói như thế là vì biết rõ chủ mưu phóng hỏa là ai. Trước đó, Văn Định Vương hậu đã không ít lần cố sát hại Thế tử nhưng những lúc như thế ngài đều may mắn thoát nạn. Dù cho là kế mẫu nhưng Văn Định Vương hậu lại rắp tâm muốn giết ngài, đạo làm con "phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu" nên ngài mới có ý định ngồi yên để chết cháy trong đám lửa.

Nghe thấy tiếng thét của Thế tử, Tần cung không thể bỏ lại ngài một mình nên quyết ở lại. Tuy nhiên, lửa cháy rực lên đến mức hai người sắp không trụ được thì nghe thấy bên ngoài có tiếng hô thất thanh. Chính là giọng của Trung Tông gọi Thế tử đang ngập trong biển lửa. Nghe thấy tiếng của phụ vương, Thế tử mới nói nếu bây giờ ta chết thì vẹn hiếu đạo với Trung điện nhưng lại bất hiếu và bất trung với phụ vương. Cuối cùng ngài cùng Tần cung chạy thoát ra khỏi đám cháy.

Ngọn lửa này được cho là có người đã buộc những đốm lửa vào đuôi nhiều con chuột rồi thả chúng vào Đông cung dẫn đến phát hỏa. Dù là không xử tội kẻ chủ mưu trong vụ hỏa hoạn nhưng cũng cần phải điều tra rõ ràng. Vậy mà Nhân Tông dù biết rõ ai là kẻ đầu sỏ nhưng vẫn không hé một lời, vì vậy mà thời gian dần trôi người ta cũng chỉ xử lý cho qua. Do đó mà sự kiện Đông Cung phát hỏa là có thật nhưng ngọn ngành thì không rõ nên người đời mới cho rằng chủ mưu là Văn Định Vương hậu, trở thành một câu chuyện dã sử.

Trải qua 25 năm tại ngôi Thế tử và trải qua bao lần bị ám hại, cuối cùng ngài lên ngôi Đại vương ở tuổi 30 (1544) tại Minh Chính điện ở Xương Khánh cung. Sau khi lên ngôi thì Nhân Tông đã phục chức cho Triệu Quang Tổ cùng những người bị hại trong Kỉ Mão sĩ họa và cho khôi phục lại kì thi Hiền lương khoa. Ngoài ra trong thời gian trị vì của mình, ngài muốn hiện thực hóa tư tưởng đạo học mà mình đã thầm nhuần để ứng dụng vào bộ máy chính trị. Vì vậy Nhân Tông đã cho những người của phái Sĩ lâm vào triều làm việc. Do đó mà những người dấn thân vào chính trường lúc đó đều là các đại học giả như Lý Ngạn Địch (이언적,李彦迪) và Liễu Quán (유관,柳灌).

Tuy nhiên, chí lớn của mình chưa thành thì Nhân Tông đã qua đời ở tuổi 31, ở ngôi chỉ vừa quá 8 tháng. Việc ra đi vội vã của Nhân Tông cũng được cho là âm mưu của Văn Định Vương hậu. Mặc dù là kế mẫu nhưng Nhân Tông luôn hiếu thảo hết mực với bà, người mẹ nuôi nấng mình khôn lớn. Dù vậy, Văn Định Vương hậu luôn đối đãi với ngài như kẻ thù, khi dâng trà vấn an cho thì bà luôn hỏi Nhân Tông là khi nào thì giết bà và Khánh Nguyên Đại quân. Nhưng ngài không ghét bỏ hay trách móc gì bà mà ngược lại còn nghĩ bản thân vẫn chưa đủ hiếu thảo mà tự trách bản thân. Thậm chí người ta còn đồn đoán rằng Nhân Tông không có người con trai nào là để nhường vương vị lại cho Khánh Nguyên Đại quân là con trai của Văn Định Vương hậu chỉ để làm hài lòng bà.

Theo dã sử, việc Nhân Tông bị bệnh qua đời được cho là ăn phải bánh tteok có độc được Văn Định Vương hậu đưa cho. Chuyện là ngày nọ khi Nhân Tông đến Đại phi điện để vấn an thì hôm đó Văn Định Vương hậu lại đặc biệt khác với ngày thường, trên miệng luôn nở nụ cười mà niềm nở đón tiếp ngài, còn dùng bánh tteok để tiếp đãi ngài. Lần đầu tiên trong đời Nhân Tông được kế mẫu tiếp đón nồng nhiệt như vậy nên không hề nghi ngờ mà ăn bánh tteok. Tuy nhiên không lâu sau đó, Nhân Tông bất ngờ đau bệnh triền miên và không bao lâu đã qua đời.

Thực tế thì đoạn dã sử trên chỉ để cho chúng ta thấy về sự miệt thị và ghen ghét của Văn Định Vương hậu đối với Nhân Tông. Còn việc thí sát Nhân Tông có hay không thì chính sử không ghi nhận. Ngoài ra, tâm cơ của Văn Định Vương hậu ngày một lớn hơn cũng chính do sự nhu nhược và lương thiện của Nhân Tông đối với bà gây ra.

Theo chính sử ghi nhận, ngày 26 tháng 6 năm Nhân Tông nguyên niên (1545) Nhân Tông đột nhiên bị bệnh và sức khỏe ngày một xấu đi. Ngày 29 tháng 6, hạ giáo thư trừ những kẻ phạm tội mưu phản và trọng tội, còn lại tất cả những phạm nhận được đại xá. Cũng trong đêm đó Nhân Tông tuyên bố thiền vị cho Khánh Nguyên Đại quân. Ngày 1 tháng 7 cùng năm Nhân Tông thăng hà tại Thanh Yến lâu (청연루,靑讌樓) ở Cảnh Phúc cung. Ngài được an táng tại Hiếu lăng (효릉,孝陵) thuộc quần thể Tây Tam lăng (서삼릉,西三陵). Minh Tông cùng triều thần dâng miếu hiệu là Nhân Tông và nhà Minh ban thụy là Vinh Tĩnh (영정,榮靖).

Gia đình

  • Cha: Triều Tiên Trung Tông Lý Dịch.
  • Mẹ: Chương Kính vương hậu Doãn thị (章敬王后尹氏, 1491 - 1515), qua đời sau khi sinh Nhân Tông.
  • Vương hậu: Nhân Thánh vương hậu Phác thị (仁聖王后朴氏; 1514 - 1577), người Phan Nam, là con gái của Cẩm Thành phủ viện quân Phác Đông (錦城府院君朴墉) và Văn Thiều phủ phu nhân họ Kim ở Nghĩa Thành (聞韶府夫人義城金氏).
  • Hậu cung:

    Thục tần họ Doãn (淑嬪尹氏), người ở Pha Bình, cháu gái của Chương Kính vương hậu. Vốn tư sắc diễm lệ, nhập cung làm thiếp của Nhân Tông lúc còn tại vị Thế tử. Khi lên ngôi Vương, Nhân Tông tấn phong vị Quý nhân rồi thăng lên Thục tần.

    Huệ tần họ Trịnh (惠嬪鄭氏), người ở Khánh Châu, sơ phong vị Quý nhân, sau tấn phong thành Huệ tần.

    Quý nhân họ Trịnh (貴人 鄭氏), người ở Diên Nhật, sơ phong vị Thục nghi. Dưới thời Minh Tông, được tấn tôn vị ''Chiêu nghi, rồi Quý nhân.

    Lương đệ họ Doãn (良娣尹氏), thê thiếp của Nhân Tông lúc còn ở Đông cung, mất sớm.

Thụy hiệu

  • Vinh Tĩnh Hiến Văn Ý Vũ Chương Túc Khâm Hiếu Đại Vương
  • 榮靖獻文懿武章肅欽孝大王
  • Heonmun Yimu Changsuk Geumhyo Daewang
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Triều Tiên Nhân Tông** (chữ Hán: 朝鮮仁宗; Hangul: 조선 인종; 10 tháng 3, 1515 – 8 tháng 8, 1545) là vị vua thứ 12 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ năm 1544 đến
**Triều Tiên Trung Tông** (chữ Hán: 朝鮮中宗; Hangul: 조선중종; 16 tháng 4, 1488 – 29 tháng 11, 1544) là vị Quốc vương thứ 11 của nhà Triều Tiên. Trị vì từ năm 1506 đến năm
**Triều Tiên Minh Tông** (chữ Hán: 朝鮮明宗, Hangul: 조선명종, 3 tháng 7, 1534 – 3 tháng 8, 1567) là vị quốc vương thứ 13 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì trong khoảng từ năm
**Triều Tiên Cao Tông** (Hangul: 조선 고종; Hanja: 朝鮮高宗; RR: Gojong; MR: Kojong, 1852 - 1919) là vị vua thứ 26 và cũng là vị vua đầu tiên của nhà Triều Tiên xưng danh hiệu
**Triều Tiên Thế Tông** (, Hanja: 朝鮮世宗, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1397 – mất ngày 8 tháng 4 năm 1450) là vị quốc vương thứ tư của nhà Triều Tiên, Miếu hiệu Thế
**Triều Tiên Thái Tông** (chữ Hán: 朝鮮太宗; Hangul: 조선 태종; 13 tháng 6, 1367 – 8 tháng 6, 1422), còn gọi là **Triều Tiên Thái Tông Cung Định đại vương** (朝鮮太宗恭定大王) hay **Triều Tiên Cung
**Triều Tiên Thành Tông** (chữ Hán: 朝鮮成宗; Hangul: 조선 성종, 20 tháng 8, 1457 - 20 tháng 1, 1495), là vị quốc vương thứ 9 của nhà Triều Tiên. Ông ở ngôi từ năm 1469
**Triều Tiên Túc Tông** (chữ Hán: 朝鲜肃宗, Hangul: 조선 숙종; 7 tháng 10 năm 1661 – 8 tháng 6 năm 1720) là Quốc vương thứ 19 của nhà Triều Tiên. Trị vì từ năm 1674
**Triều Tiên Nhân Tổ** (chữ Hán: 朝鮮仁祖; Hangul: 조선 인조, 7 tháng 12 năm 1595 - 17 tháng 6 năm 1649), là vị quốc vương thứ 16 của nhà Triều Tiên. Ông ở ngôi từ
**Triều Tiên Cảnh Tông** (chữ Hán: 朝鮮景宗; Hangul: 조선 경종; 1688 - 1724), là vị Quốc vương Triều Tiên thứ 20, trị vì trong 4 năm, từ 1720 đến năm 1724. Cảnh Tông đại vương,
**Triều Tiên Định Tông** (chữ Hán: 朝鮮定宗; Hangul: 조선 정종; 1357 - 1419), là vị quân chủ thứ hai của triều đại Nhà Triều Tiên. Ông cai trị từ năm 1398 đến khi thiện nhượng
**Triều Tiên Triết Tông** (25 tháng 7, 1831 - 16 tháng 1, 1864) tên thật là **Lý Biện** (Yi Byeon; 李昪), là vị vua thứ 25 của nhà Triều Tiên, cai trị từ năm 1849
**Triều Tiên Hiếu Tông** (chữ Hán: 朝鮮孝宗; 3 tháng 7 năm 1619 - 23 tháng 6 năm 1659), là vị Quốc vương thứ 17 của nhà Triều Tiên. Ông trị vị từ năm 1649 đến
**Triều Tiên Hiến Tông** (8 tháng 12, 1827 –25 tháng 7, 1849), cai trị từ năm 1834-1849, là vị vua thứ 24 của nhà Triều Tiên. Ông là con trai của Hiếu Minh Thế tử
**Triều Tiên Văn Tông** (chữ Hán: 朝鮮文宗; Hangul: 조선문종; 3 tháng 10, 1414 - 14 tháng 5, 1452), là vị Quốc vương thứ năm của nhà Triều Tiên. Ông trị vì tổng cộng 2 năm,
**Triều Tiên Đoan Tông** (1441–1457), là vị Quốc vương thứ sáu của nhà Triều Tiên, trị vì từ năm 1452 đến năm 1455. ## Cuộc đời ### Thân thế Vào ngày 9 tháng 8 năm
**Triều Tiên Thuần Tông**(Hangul: 융희제; Hanja: 朝鮮純宗, Hán-Việt: Triều Tiên Thuần Tông) (1874 – 24 tháng 4 năm 1926) là vị vua thứ 27 và là cuối cùng nhà Triều Tiên, cũng như là Hoàng
**Triều Tiên Duệ Tông** (chữ Hán: 朝鲜睿宗; Hangul: _Joseon Yejong_, 1450 - 1469), là vị quốc vương thứ 8 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì trong thời gian ngắn ngủi, từ ngày 22 tháng
**Triều Tiên Hiển Tông** (chữ Hán: 朝鮮顯宗; Hangul: 조선 현종; 14 tháng 3 năm 1641 - 17 tháng 9 năm 1674), là vị Quốc vương thứ 18 của nhà Triều Tiên. Ông trị vị từ
**Quý nhân Triệu thị** (Hanja: 貴人趙氏, Hangul: 귀비조씨; 1615 - 24 tháng 01, 1652), cũng gọi là **Quý nhân Triệu thị** hoặc **Phế quý nhân Triệu thị**, là một hậu cung tần ngự và Nội
**Đào thoát khỏi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** là hiện tượng những người mang quốc tịch CHDCND Triều Tiên vượt biên khỏi quốc gia này để sang một quốc gia khác, thường
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trên bán đảo Triều Tiên trong lịch sử, hiện bán đảo này bị chia cắt thành 2 nước là Cộng hòa dân chủ
Vấn đề **nhân quyền tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** rất khó để đánh giá toàn diện vì nó bị xem là vấn đề bí mật và nhạy cảm ở quốc gia
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
**Triều Tiên Thái Tổ** (chữ Hán: 朝鮮太祖; Hangul: 조선 태조; 4 tháng 11 năm 1335 – 27 tháng 6 năm 1408), tên khai sinh là **Lý Thành Quế (Yi Seong-gye)** là người sáng lập ra
:_Bài này về lịch sử của Triều Tiên cho tới cuộc phân chia Triều Tiên vào ở cuối thập niên 1940. Xem thêm Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Lịch
**Triều Tiên Tuyên Tổ** (chữ Hán: 朝鮮宣祖; Hangul: 조선 선조; 26 tháng 11, 1552 - 16 tháng 3 năm 1608), là vị quốc vương thứ 14 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ năm
**Triều Tiên Anh Tổ** (chữ Hán: 朝鮮英祖; Hangul: 조선 영조, 31 tháng 10 năm 1694 – 22 tháng 4 năm 1776) là vị quốc vương thứ 21 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ
**Triều Tiên thuộc Nhật** (, Dai Nippon Teikoku (Chōsen)) là giai đoạn bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ Đế quốc Nhật Bản cai trị, được bắt đầu kể từ khi Nhật Bản ép vua
**Tổng tư lệnh Lực lượng Vũ trang Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** () là người nắm quyền chỉ huy cao nhất đối với toàn bộ Quân đội Nhân dân Triều Tiên của
**Triều Tiên Thế Tổ** (chữ Hán: 朝鮮世祖; Hangul: _조선 세조_, 7 tháng 11, 1417 – 8 tháng 9, 1468), là vị quốc vương thứ 7 của nhà Triều Tiên. Cai trị từ năm 1455 đến
**Chủ tịch Ủy ban Quốc vụ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** () là lãnh đạo tối cao, nguyên thủ quốc gia của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và tổng
**Triều Tiên** (theo cách sử dụng tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên: Chosŏn'gŭl: 조선, Hanja: 朝鮮, McCune–Reischauer: Chosǒn), **Hàn Quốc** (theo cách sử dụng tại Đại Hàn Dân Quốc: ), **liên Triều**
nhỏ|261x261px|[[Thành Hwaseong]] **Triều Tiên Chính Tổ** (chữ Hán: 朝鮮正祖; Hangul: 조선정조, 28 tháng 10 năm 1752 – 28 tháng 6 năm 1800) là vị quốc vương thứ 22 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì
**Triều Tiên Thuần Tổ** (chữ Hán: 朝鮮純祖; Hangul: 조선 순조; 29 tháng 7 năm 1790 - 13 tháng 12 năm 1834) là vị Quốc vương thứ 23 của nhà Triều Tiên. Ông cai trị từ
right|thumb|Diễu hành nhạc truyền thống ở Seoul. **Nhạc truyền thống Triều Tiên** bao gồm nhạc dân tộc, thanh nhạc, tôn giáo và phong cách âm nhạc nghi lễ của người Triều Tiên. Nhạc Triều Tiên,
**Trinh Ý Công chúa **(貞懿公主, 1415 - 11 tháng 2, 1477) là công chúa nhà Triều Tiên, vương thứ nữ của Triều Tiên Thế Tông và Chiêu Hiến Vương hậu Thẩm thị, em gái của
**Đảng Cộng sản Triều Tiên **(), thường gọi tắt là **Triều Cộng**, là một chính đảng theo chủ nghĩa cộng sản được Quốc tế Cộng sản thành lập tại một hội nghị bí mật ở
nhỏ| Lò phản ứng thử nghiệm 5 [[Watt|Mwe được chế tạo tại Yongbyon trong giai đoạn 1980-1985. ]] Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (còn gọi là Triều Tiên hoặc Bắc Triều Tiên)
() cũng có thể gọi theo tiếng Nhật chuyển tự Latinh là **_Zainichi_** là những người Triều Tiên di cư đến Nhật Bản trước năm 1945 và trở thành công dân hoặc thường trú nhân
**Ủy ban Quốc vụ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** ( - **State Affairs Commission of the Democratic People's Republic of Korea** (**SAC**)) được định nghĩa bởi hiến pháp năm 2016 là "cơ
Xuyên suốt thời kỳ quân chủ của nhà Triều Tiên, tước hiệu và tôn xưng hiệu (jonchingho, 존칭호, 尊稱號) (dùng để xưng hô) của vương thất rất đa dạng và phức tạp. Các vị quân
**Bộ Tổng tham mưu** (**BTTM**) Quân đội Nhân dân Triều Tiên (QĐNDTT) là cơ quan lãnh đạo quân sự cấp cao của lực lượng vũ trang Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên chịu
**Quý nhân Triệu thị **(貴人 趙氏, 1707 - 1780) là một hậu cung của Triều Tiên Anh Tổ thuộc nhà Triều Tiên. ## Tiểu sử Bổn quán ở Phong Nhưỡng. Thân phụ Triệu Đài Trưng
**_Triều Tiên Khu ma sư_** (; tiếng Anh: _Joseon Exorcist_; lit.:_ Pháp sư đuổi ma Triều Tiên_) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2021 thuộc thể loại siêu nhiên-giả tưởng. Bộ phim
**Lý Hoảng** tự **Cảnh Hạo**, hay còn có các tên hiệu khác như **Thoái Khê**, **Đào Ông**, **Thanh Lương Sơn Nhân** và **Chân Bảo Nhân**, là một nhà Nho, học giả nổi tiếng người Triều
Trong **Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên**, Nội các là cơ quan hành chính và hành pháp. Chính phủ Triều Tiên bao gồm ba nhánh: hành chính, lập pháp và tư
Lịch sử quân sự Triều Tiên kéo dài hàng nghìn năm, bắt đầu từ Cổ Triều Tiên và tiếp tục cho đến ngày nay với Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên. Các nhà quân sự