✨Trận Trấn Ninh (1802)

Trận Trấn Ninh (1802)

Trận Trấn Ninh (1802) là trận kịch chiến cuối cùng giữa quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn, xảy ra vào tháng Giêng năm Nhâm Tuất (3 tháng 2 năm 1802) và kết thúc sau một thời gian ngắn (không rõ ngày), ở Trấn Ninh (Quảng Bình, Việt Nam).

Kết thúc trận, quân Tây Sơn đại bại. Nhà sử học Phạm Văn Sơn viết: "Nhà Tây Sơn mạt vận ở lũy Trấn Ninh."

Chuẩn bị

Sau khi kinh đô Phú Xuân thất thủ vào ngày 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801), vua Tây Sơn là Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) bỏ chạy ra Bắc Hà. Tháng 6, vua đổi niên hiệu thành Bảo Hưng, năm Cảnh Thịnh thứ 9 thành Bảo Hưng năm đầu, xuống chiếu nhận lỗi, an dân, đồng thời để chiêu tập thêm binh mã.

Tháng 8 (âm lịch) cùng năm, Nguyễn Quang Thùy (anh cùng cha khác mẹ với vua cảnh Thịnh) nhận lệnh đem quân vào giữ Nghệ An.

Sau khi truyền hịch đi các trấn lấy quân, đến tháng 11 (âm lịch), thì nhà vua đã có trong tay non 3 vạn lính (gồm quân 4 trấn xứ Bắc và quân Thanh Hóa, Nghệ An). Giao Bắc thành cho hai em là Nguyễn Quang Thiệu và Nguyễn Quang Khanh coi giữ, vua Bảo Hưng tự mình đem hết số quân trên, vượt sông Gianh (tức sông Linh Giang) vào Quảng Bình. Cùng lúc đó, với hơn 100 chiếc chiến thuyền, thủy quân Tây Sơn cũng được lệnh vào trấn giữ cửa Nhật Lệ. Ngoài ra, hỗ trợ lực lượng này còn có 5.000 quân của Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân.

Trước đây, cũng vì e quân Tây Sơn ở Thăng Long vào cứu Quy Nhơn, nên vào tháng 7 cùng năm trên, chúa Nguyễn Phúc Ánh đã đến Đồng Hới thăm lũy Trấn Ninh, duyệt lại số quân, trọng pháo và lương thực; rồi chia đi các nơi hiểm yếu. Riêng ở sông Gianh, chúa Nguyễn cho một hạm đội có lục quân yểm trợ đến canh phòng. Ngoài ra, chúa còn gọi thêm quân ở các nơi khác tới tăng cường cho mặt trận Quảng Bình.

Khởi cuộc

Để tấn công ba căn cứ quân sự rất trọng yếu ở địa đầu trấn Thuận Hóa, quân thủy bộ Tây Sơn phân thành ba mũi như sau: Một đạo bộ binh do Nguyễn Quang Thùy và Tổng Quân Siêu chỉ huy sẽ đánh vào lũy Trấn Ninh. Một đạo bộ binh do Nguyễn Văn Kiên và Tư Lệ Tiết chỉ huy sẽ đánh lũy Đâu Mâu. *Một đạo thủy quân gồm trăm thuyền chiến do Đặng Văn Tất và Đô đốc Lực chỉ huy sẽ chặn ngang cửa sông Gianh.

Mặc dù đã chuẩn bị khá chu đáo, nhưng trước lực lượng hùng hậu của đối phương, các tướng Nguyễn là Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương và Đặng Trần Thường đang trấn giữ sông Gianh, phải cho lui quân về Đồng Hới.

Được tin khẩn, chúa Nguyễn liền thân chinh đem đại quân ra tiếp ứng, sai Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường đem quân ra giữ mặt bộ, sai Nguyễn Văn Trương ra giữ mặt biển.

Khai cuộc

Tháng Giêng năm Nhâm Tuất (3 tháng 2 năm 1802), vua Tây Sơn sai Nguyễn Quang Thùy tiến quân lên đánh lũy Trấn Ninh, nhưng đánh mãi không đổ. Thành Đầu Mâu cũng bị quân Tây Sơn tấn công rất gắt, nhưng vẫn không phá được. Vua Tây Sơn đã toan rút quân về, nhưng Bùi Thị Xuân không chịu, xin cho ra đốc quân đánh trận.

Rồi một mình bà trên mình voi xông xáo trên chiến trường từ sáng sớm đến chiều tối, chưa bên nào được thua. Đánh một lúc nữa, quân Nguyễn dự tính tháo lui thì bất ngờ ở cửa Nhật Lệ, đội binh thuyền của Tây Sơn bị thủy quân của tướng Nguyễn Văn Trương phá tan.

Sách Việt sử tân biên (quyển 4) chép: :Tin (thủy quân bị đánh tan) đến tai vua Cảnh Thịnh và các tướng tá khiến mọi người thất vọng. Riêng Bùi Thị (Xuân) vẫn hăng hái truyền cho một đại đội khác đến thay cho bọn làm phản (đang) bỏ vắng. Quân Nguyễn trong thành bắn ra như mưa rào. Quân Tây Sơn được lệnh ào ạt trèo tường vào (lũy) Trấn Ninh. Nữ tướng giành lấy dùi trống thúc liên hồi. Nếu trận đánh cứ tiếp diễn luôn hai tiếng nữa như thế thành Trấn Ninh có lẽ mất. Nguyễn vương và các tướng tá bấy giờ đã hoảng hốt vội cho thủy quân vượt sông Linh Giang đánh bọc hậu có ý chia lực lượng của nữ tướng họ Bùi hầu mở được một con đường máu để thoát thân. Nguyễn Quang Thùy nhát gan thấy thế tưởng nguy liền lui binh. Được một lúc bà mới biết. Sự kiện này làm những đạo quân còn đang chiến đấu nao lòng, đa số binh tướng Tây Sơn xin bà Bùi cho rút lui, tệ hơn nữa họ bỏ cả vũ khí đạn dược để chạy tháo thân. Cuối cùng, thế chẳng đặng đừng, nữ tướng họ Bùi cùng một số quân riêng hộ vệ cho vua Cảnh Thịnh rút về phương Bắc...Thắng xong trận này, Nguyễn vương về Phú Xuân để sắp đặt việc tức vị...

Nhận xét

Trong những lần đánh nhau giữa quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn, lần được sử sách nhắc nhở nhiều nhất là trận Trấn Ninh (1802). Đây là trận có ý nghĩa quyết định nên cả hai bên đều dốc hết toàn lực và có quyết tâm cao.

Theo sử liệu thì trong lần giao tranh giao tranh này, quân Nguyễn đã dao động trước tinh thần lăn xả của quân Tây Sơn, và nổi bật nhất là nữ tướng Bùi Thị Xuân. Mặc dù bà không phải là tướng tổng chỉ huy, nhưng với năm ngàn quân, bà đã hiên ngang tấn công một cách quyết liệt vào đội ngũ của đối phương, khiến cho chúa Nguyễn Ánh còn phải khiếp sợ. Tuy nhiên lực lượng chung của Tây Sơn đến thời điểm đó đã hoàn toàn suy yếu, lòng dũng cảm và khả năng cầm quân của bà cùng các tướng lĩnh trung thành còn lại không đủ để chống lại quân Nguyễn.

Theo Phạm Văn Sơn, thì cũng chính vì tinh thần can đảm, hòng xoay chuyển tình thế, đã làm cho chúa Nguyễn và các tướng lĩnh có lúc thất thần, mà bà phải nhận hình phạt dã man nhất...

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Trấn Ninh** (1802) là trận kịch chiến cuối cùng giữa quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn, xảy ra vào tháng Giêng năm Nhâm Tuất (3 tháng 2 năm 1802) và kết thúc sau
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
Năm **1802** (**MDCCCII**) là một năm thường bắt đầu vào thứ Sáu theo lịch Gregory hay một năm thường bắt đầu vào thứ Tư theo lịch Julius. ## Sự kiện trong năm 1802 ### Tháng
Lịch sử hành chính tỉnh Quảng Ninh có thể được xem bắt đầu từ cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1831-1832. Theo đó, từ năm 1831, trấn Quảng Yên được đặt thành
**Bắc Ninh** hình thành lâu đời gắn liền với nền Văn minh sông Hồng. Luy Lâu không chỉ là trung tâm chính trị, mà còn là trung tâm kinh tế - thương mại, trung tâm
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Trần Quang Diệu** (chữ Hán: 陳光耀; 1746 – 1802) là một trong _Tây Sơn thất hổ tướng_ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với vợ là nữ tướng Bùi Thị
**Nguyễn Thị Dung** (阮氏蓉, ? - 1802), là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, và là một nữ tướng của triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Bà Dung là
**Quảng Ninh** là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, và vừa thuộc
**Huỳnh Thị Cúc** (黃氏菊, ? - 1802), là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, và là một nữ tướng của triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Bà là người
**Trần Thị Lan** (? - 1802) là một nữ tướng dưới triều Tây Sơn, bà là tùy tướng của Bùi Thị Xuân, cùng các nữ tướng khác được gọi là Tây Sơn ngũ phụng thư.
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam và Xiêm La** (Thái Lan ngày nay) được bắt đầu từ thế kỷ 18, khi người Việt tiến vào khu vực đồng bằng sông Cửu Long và gây ảnh
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nguyễn Quang Toản ** (chữ Hán: 阮光纘, 1783 – 1802), là vị hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của vua Quang
**Bùi Thị Xuân** (; 1752 – 1802) là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, là chính thất của Thái phó Trần Quang Diệu và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong
**Nguyễn Quang Thùy** (chữ Hán: 阮光垂; ? – 1802), là con vua Quang Trung và là _Tiết chế thủy bộ chư quân miền Bắc_ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Trương Đăng Đồ** (? - 1802) một danh tướng của Tây Sơn, tước Tú Đức hầu. ## Thân thế Trương Đăng Đồ là người làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi; nay thuộc
**Bùi Thị Nhạn** (chữ Hán: 裴氏雁, ?- 1802), cũng gọi **Bùi Kế hậu** (裴繼后), được tấn phong làm Chính cung Hoàng hậu của Quang Trung Hoàng đế Nguyễn Huệ sau khi người vợ cả là
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt
**Thuận Thành trấn** hay **Trấn Thuận Thành** (), là tên gọi hành chính tiếng Việt của tiểu vương quốc **Panduranga** giai đoạn 1693 - 1832 trong chính sách tự trị của các chúa Nguyễn. Tại
**Trần Thị Huệ** (chữ Hán: 陳氏惠; 1743 - 1791), còn gọi **Trần Chính hậu** 陳正后, là hoàng hậu nhà Tây Sơn, vợ cả của Thái Đức hoàng đế Nguyễn Nhạc. ## Tiểu sử Trần Thị
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
**Muang Phuan** (Lao: ເມືອງພວນ, ; Country of Phuan) hay **Xieng Khouang** (, ), người Việt gọi là **Bồn Man** (盆蠻), **Mường Bồn**, **Mường Phăng** hay **Trấn Ninh** (鎮寧), là một quốc gia cổ từng tồn
Đây là bản dịch tiếng Việt của tham luận (bằng tiếng Anh) của TS. Trần Đức Anh Sơn đã viết để tham gia “Conference on Nguyen Vietnam: 1558 – 1885” (Hội thảo về nhà Nguyễn
Đây là danh sách **các cuộc chiến tranh liên quan Việt Nam** bao gồm có sự tham gia của Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trong danh sách này, ngoài những
**Biên giới Việt Nam-Campuchia** là biên giới phân định chủ quyền quốc gia, trên đất liền và trên biển, giữa hai quốc gia láng giềng trên bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam
**Đông Ngàn** là tên một huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam trước năm 1912, tương ứng với địa giới thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và một phần các huyện Đông Anh, Gia
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Nguyễn Văn Hiếu** (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Hiếu** là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh
Khu di tích nhạc sĩ Cao Văn Lầu **Lịch sử hành chính Bạc Liêu** được lấy mốc từ cuộc cải cách hành chính Nam Kỳ năm 1900. Theo đó, tỉnh Bạc Liêu được thành lập
**Vũ Văn Dũng** hay **Võ Văn Dũng** (chữ Hán: 武文勇) (1750 - 1802), là một danh tướng của nhà Tây Sơn, đứng đầu trong Tây Sơn thất hổ tướng. Ông là người được vua Quang
**Minh Mạng** hay **Minh Mệnh** (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi
**Hải Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2021, Hải Dương là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 8 về số dân với 1.936.774 người, tốc
**Tiên Du** là một huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh, vùng đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt Nam. ## Vị trí địa lý Huyện Tiên Du nằm ở phía tây nam của tỉnh Bắc Ninh,
**Tống Phúc Lương** (chữ Hán: 宋福樑, thường đọc **Tống Phước Lương**, 1771 - 1834) là ngoại thích, tướng lĩnh phục vụ cho dòng họ Nguyễn từ thời chúa Nguyễn Phúc Thuần cho đến đời vua
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
**Hành chính Việt Nam thời Tây Sơn** ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của nhà Tây Sơn từ năm 1778 đến năm 1802, không chỉ giới hạn trong phạm vi
**Chiến tranh Việt – Xiêm** (1833–1834) là một cuộc chiến gồm hai đợt tấn công của quân Xiêm vào lãnh thổ Việt Nam thời Nhà Nguyễn của vua Minh Mạng, đợt thứ nhất khởi đầu
**Quân đội Tây Sơn** là tổ chức vũ trang của Nhà Tây Sơn, xuất phát từ lực lượng nghĩa quân của phong trào nông dân từ năm 1771 cho đến ngày sụp đổ năm 1802.
Các tiểu vùng địa lý tự nhiên
của miền Bắc Việt Nam
nhỏ|Tây Bắc Bộ (đỏ) trong Việt Nam **Tây Bắc Bộ** là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường
phải|Một góc [[núi Hồng Lĩnh|núi Hồng – sông Lam, biểu tượng đặc trưng về địa lý – văn hóa của xứ Nghệ]] **Xứ Nghệ** là tên chung của vùng Hoan Châu (驩州) cũ từ thời
**Cuộc nổi dậy Lê Duy Lương** (khởi phát: 1832, kết thúc: 1837 hoặc 1838) là cuộc nổi dậy của đa số người Mường ở Hòa Bình và Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của con
**Tạ Quang Cự** (chữ Hán: 謝光巨; 17/9/1772 - 1862) là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Tạ Quang Cự quê gốc tại tỉnh Nghệ An, sau dời về ở
**Thái Nguyên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Nguyên, nằm bên bờ sông Cầu, là một trong những thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam. Thành phố Thái Nguyên là trung
**Hiệp Hòa** là một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Hiệp Hòa nằm ở phía tây tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang khoảng 30 km về phía tây, cách
**Tôn Khánh Thành** (chữ Hán: 孙庆成, ? - 1812) là tướng lãnh nhà Thanh, từng tham chiến tại Việt Nam. Ông là người Hán Quân Chính Bạch kỳ, nguyên quán Quảng Ninh, Liêu Ninh. _Thanh
**Lê Duy Lương** (黎維良, 1814 - 1833) là thủ lĩnh cuộc nổi dậy ở Sơn Âm - Thạch Bi (đều thuộc tỉnh Hòa Bình) dưới triều vua Minh Mạng trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa