✨Trận Seoul lần thứ ba
Trận Seoul lần thứ ba, hay còn gọi là Cuộc tổng tấn công đầu năm mới của Trung Quốc, Cuộc triệt thoái 4 tháng 1 () hay Chiến dịch phía Tây lần thứ ba () là một trận đánh trong Chiến tranh Triều Tiên diễn ra từ ngày 31 tháng 12 năm 1950 đến ngày 7 tháng 1 năm 1951 quanh thủ đô Seoul của Đại Hàn Dân Quốc (Hàn Quốc). Sau chiến thắng của Chí nguyện quân Nhân dân (CNQTH) tại Trận chiến sông Ch'ongch'on, chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông quyết định cho CNQTH tiến xuống phía nam vượt vĩ tuyến 38 nhằm mục tiêu đẩy lùi hoàn toàn các lực lượng Liên Hợp Quốc ra khỏi bán đảo Triều Tiên.
Ngày 31 tháng 12 năm 1950, Tập đoàn quân số 13 Chí nguyện quân Nhân dân tấn công bốn sư đoàn 1, 2, 5 và 6 của Hàn Quốc dọc theo vĩ tuyến 38 tại các vị trí phòng thủ ở sông Imjin, sông Hantan, Gapyeong và Chuncheon. Các vị trí phòng thủ của quân Liên Hợp Quốc bị chọc thủng dẫn đến chỉ huy trưởng Tập đoàn quân số 8 Hoa Kỳ Matthew B. Ridgway quyết định di tản lực lượng Liên Hợp Quốc khỏi Seoul ngày 3 tháng 1 năm 1951. Chiều ngày 4 tháng 1, CNQTH tiến vào Seoul và chỉ chứng kiến một thành phố đã bị bỏ hoang.
Mặc dù thất bại trong trận Seoul lần thứ ba, liên quân Liên Hợp Quốc từ bỏ kế hoạch rút khỏi bán đảo Triều Tiên. CNQTH sau các chiến thắng liên tiếp cũng trở nên kiệt sức và dần dần mất thế chủ động trên chiến trường về phía liên quân Liên Hợp Quốc.
Hoàn cảnh trận đánh
thế=A series of front lines drawn over the Korean peninsula with each line labeled with a date|trái|nhỏ|Bản đồ rút lui của Tập đoàn quân số 8, ngày 1–23 tháng 11 năm 1950 Việc Trung Quốc tham gia Chiến tranh Triều Tiên vào cuối năm 1950 đã đẩy cuộc xung đột bước sang giai đoạn mới. Khi các lực lượng Liên Hợp Quốc vượt qua vĩ tuyến 38 tiến vào Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên) bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và tiến quân đến tận biên giới Trung – Triều tại Sông Áp Lục, Giải phóng quân Nhân dân Trung Hoa dưới tên gọi Chí nguyện quân Nhân dân (CNQTH) – tư lệnh là tướng Bành Đức Hoài – đã được chủ tịch Mao Trạch Đông ra lệnh tiến vào phía Bắc bán đảo Triều Tiên và bắt đầu tấn công quân Liên Hợp Quốc từ ngày 25 tháng 10. Trong tháng 12 năm 1950, CNQTH và Quân đội Nhân dân Triều Tiên tái chiếm miền Bắc bán đảo Triều Tiên sau các chiến thắng lớn tại Thung lũng sông Ch'ongch'on và hồ Trường Tân.
Ở mặt trận phía tây bán đảo Triều Tiên, sau khi Tập đoàn quân (TĐQ) số 8 của Hoa Kỳ thảm bại tại sông Ch'ongch'on, đơn vị này đã rút lui về sông Imjin và thiết lập các vị trí phòng thủ quanh thủ đô Seoul của Hàn Quốc. Mặc dù TĐQ số 8 được lệnh giữ Seoul càng lâu càng tốt Liên Hợp Quốc cũng đề xuất với Trung Quốc việc ngừng bắn dọc theo vĩ tuyến vĩ tuyến 38 vào ngày 11 tháng 12 năm 1950 để tránh bất kỳ sự leo thang thù địch nào giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Mặc dù sức mạnh của CNQTH đã bị suy giảm vì các trận chiến trước đó đã khiến 40% lực lượng của CNQTH không còn khả năng chiến đấu, những chiến thắng bất ngờ trước lực lượng Liên Hợp Quốc làm cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc tin vào sự bất khả chiến bại của CNQTH. Ngay sau chiến thắng của Tập đoàn quân số 13 CNQTH trước TĐQ số 8 Hoa Kỳ tại sông Ch'ongch'on, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông bắt đầu dự tính một cuộc tấn công khác nhắm vào lực lượng Liên Hợp Quốc trước yêu cầu của Thủ tướng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành. Sau khi biết kế hoạch của MacArthur và để xuất ngừng bắn của Liên Hợp Quốc, Chủ tịch Mao cũng tin rằng quân đội Liên Hợp Quốc sẽ sớm rút khỏi bán đảo Triều Tiên. Vào ngày 23 tháng 12 năm 1950, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Chu Ân Lai chính thức từ chối lệnh ngừng bắn của Liên Hợp Quốc đồng thời yêu cầu tất cả các lực lượng Liên Hợp Quốc phải rút khỏi Bán đảo Triều Tiên.
Sự chuẩn bị và chiến lược của đôi bên
Trận đánh sẽ diễn ra trên tuyến phòng thủ của quân Liên Hợp Quốc tại vĩ tuyến 38, kéo dài theo chiều ngang từ cửa sông Imjin trên bờ biển phía tây bán đảo Triều Tiên đến thị trấn Chuncheon ở miền trung bán đảo Triều Tiên. Có tổng cộng ba con đường tiếp cận Seoul: Quốc lộ 33 chạy về phía nam qua vĩ tuyến 38 tại sông Hantan, đi qua Uijeongbu và cuối cùng đến Seoul, và đây là tuyến đường tấn công Seoul từ xưa; cuối cùng, con đường chạy qua Chuncheon và đến Seoul từ phía đông bắc. khiến hai con sông Imjin và Hantan đóng băng, loại bỏ chướng ngại lớn trên đường tiến quân của CNQTH.
Liên Hợp Quốc
Đến ngày 22 tháng 12 năm 1950, các vị trí của TĐQ số 8 Hoa Kỳ đã ổn định dọc theo Vĩ tuyến 38. Chỉ vài ngày trước khi tử nạn, tướng Walker đã bố trí Quân đoàn I Hoa Kỳ, Quân đoàn IX Hoa Kỳ và Quân đoàn III Hàn Quốc của TĐQ số 8 dọc theo vĩ tuyến 38 để bảo vệ Seoul.
Đến cuối năm 1950, Hàn Quốc đã chịu thương vong đến 45.000 quân, do đó hầu hết các đơn vị Hàn Quốc chỉ toàn là tân binh chưa được huấn luyện nhiều. Sau khi thị sát mặt trận chỉ vài ngày trước trận chiến, Tướng J. Lawton Collins – Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, kết luận rằng hầu hết các đơn vị Hàn Quốc chỉ phù hợp với nhiệm vụ tiền đồn. Đồng thời, TĐQ số 8 cũng đang bị suy sụp tinh thần do những thất bại trước đó, và hầu hết các binh sỹ đang dự đoán họ sẽ chuẩn bị được di tản khỏi Triều Tiên. Việc TĐQ số 8 thiếu ý chí chiến đấu và cũng không theo dõi các lực lượng Trung Quốc dẫn đến họ thiếu thông tin về sự di chuyển và ý định của CNQTH. Sau khi kiểm tra mặt trận vào ngày 27 tháng 12, tướng Ridgway đã ra lệnh cho Quân đoàn I và IX của Hoa Kỳ tổ chức một tuyến phòng thủ mới quanh Koyang tới Uijeongbu, được gọi là "Bridgehead Line", để đảm bảo cho việc vượt qua sông Hán trong trường hợp lực lượng Liên Hợp Quốc buộc phải bỏ Seoul.
Trung Quốc
CNQTH cũng đã kiệt sức và gặp phải vấn đề về hậu cần và sau những chiến thắng trước đó. Ngày 7 tháng 12, Tư lệnh CNQTH Bành Đức Hoài đã điện báo cho Chủ tịch Mao liên quan đến chiến dịch tấn công đợt 3 rằng CNQTH sẽ phải cần ít nhất ba tháng để có người thay thế cho số quân thương vong, và hầu hết lính Trung Quốc đang rất cần tiếp tế, nghỉ ngơi và tổ chức lại. Lính Trung Quốc còn phải đối diện với việc đói ăn và thiếu quần áo ấm cho mùa đông.
Đáp lại sự lo lắng của tướng Bành về điều kiện quân sĩ Trung Quốc, Chủ tịch Mao giới hạn phạm vi của Chiến dịch Giai đoạn ba nhằm giữ chặt các lực lượng Hàn Quốc dọc theo vĩ tuyến 38 và gây ra thiệt hại nhiều nhất có thể cho lính Hàn Quốc. Khi nhận thấy các đơn vị Hoa Kỳ không được xen kẽ giữa các đơn vị Hàn Quốc do đó không thể hỗ trợ khi cần thiết, Chủ tịch Mao ra lệnh cho Tập đoàn quân 13 CNQTH phải tiêu diệt Sư đoàn 1 Bộ binh, Sư đoàn 6 Bộ binh và Quân đoàn III Hàn Quốc. Tại khu vực Chuncheon, hai quân đoàn 42 và 66 CNQTH cũng buộc Quân đoàn III Hàn Quốc phải bỏ trận địa. Tuyến phòng thủ của quân Liên Hợp Quốc hoàn toàn sụp đổ vào ngày đầu năm mới 1 tháng 1 năm 1951 và tướng Ridgway đã phải ra lệnh di tản khỏi Seoul vào ngày 3 tháng 1.
Chiến sự tại sông Imjin và sông Hantan
Đến ngày 15 tháng 12 năm 1950, Sư đoàn 1 Bộ binh Hàn Quốc đã rút lui về thị trấn Choksong trên bờ phía nam của sông Imjin, vị trí phòng thủ ban đầu của đơn vị này khi Chiến tranh Triều Tiên mới bắt đầu. Bên sườn phải của Sư đoàn 1 là Sư đoàn 6 bộ binh Hàn Quốc nằm ở phía bắc của thị trấn Dongducheon dọc theo bờ phía nam của sông Hantan. Sư đoàn 1 bộ binh đã lên kế hoạch bảo vệ sông Imjin bằng cách bố trí Trung đoàn 11 và 12 của mình ở phía tây và phía đông của Choksong
Quân Trung Quốc có hơn một tháng chuẩn bị để phá vỡ hệ thống phòng thủ của Hàn Quốc. Lực lượng dẫn đầu cuộc tấn công qua sông Imjin và sông Hantan sẽ là các đại đội xung kích bao gồm công binh và lính được huấn luyện đặc biệt. Trong quá trình chuẩn bị cho chiến dịch, các đơn vị pháo binh CNQTH chịu tổn thất nặng nề bởi các cuộc không kích của Liên Hợp Quốc, nhưng Phó Tư lệnh Hàn Tiên Sở vẫn cố gắng đưa được 100 khẩu pháo đến trận địa để bắn phá công sự đối phương.
Bộ tư lệnh Hàn Quốc căn cứ vào dự đoán của tướng Ridgway đã ra lệnh toàn bộ các lực lượng của mình phải trong trạng thái cảnh giác cao độ nhất trong đêm ngày 31 tháng 12 tuy nhiên nhiều lính Hàn Quốc vẫn say xỉn do ăn mừng năm mới hoặc bỏ trạm gác để tránh rét. 16 giờ 30 chiều ngày 31 tháng 12, pháo binh Trung Quốc bắt đầu nã đạn vào các vị trí quân Hàn Quốc. Đơn vị đầu tiên bị tấn công là Trung đoàn 12, Sư đoàn 1 Bộ binh do đơn vị này đóng ngay giữa ranh giới giữa Sư đoàn 1 và Sư đoàn 6 Hàn Quốc cũng như ranh giới giữa Quân đoàn I và IX của Hoa Kỳ. Vì cạnh sườn của Trung đoàn 12 là bờ sông với vách đá cao khó tấn công nên phần lớn lực lượng của Trung đoàn 12 đóng ở trung tâm. Khi nhận thấy điều này, Quân đoàn 39 CNQTH quyết định mũi tấn công chính sẽ là cạnh sườn Trung đoàn 12 Hàn Quốc để tạo sự bất ngờ. Lẩn vào lính Hàn Quốc đang chạy trốn, quân Trung Quốc thâm nhập được vào phòng tuyến của Trung đoàn 15 Hàn Quốc mà không cần nổ một phát súng nào. Trong nỗ lực để ngăn chặn quân Trung Quốc, Chuẩn tướng Paik Sun Yup của Sư đoàn 1 bộ binh đã phải sử dụng đến cả lính hậu cần của sư đoàn để thành lập một tiểu đoàn, nhưng vẫn thất bại.
Trong khi đó cuộc tấn công của quân Trung Quốc vào Sư đoàn 6 không được thuận lợi như kế hoạch., nhưng phần lớn lực lượng CNQTH đã tấn công nhầm vào nơi đóng quân của Trung đoàn 19, Sư đoàn 24 Bộ binh Hoa Kỳ về phía đông của Trung đoàn 19 Hàn Quốc. Khi Sư đoàn 1 Bộ binh Hàn Quốc đã bị loại khỏi vòng chiến và phòng tuyến của Sư đoàn 24 Bộ binh Hoa Kỳ bị chọc thủng, lực lượng CNQTH ở hai bên sườn của Sư đoàn 6 Bộ binh Hàn Quốc tiến xuống phía nam để bao vây sư đoàn. Ridgway đã cố gắng để đi thị sát mặt trận vào sáng ngày 1 tháng 1 và ông đã chứng kiến những người lính Hàn Quốc của Sư đoàn 6 tháo chạy vứt bỏ cả vũ khí tại vị trí một vài dặm về phía bắc Seoul. Đến đêm ngày 1 tháng 1, tuyến phòng thủ của quân Liên Hợp Quốc tại sông Imjin và sông Hantan đã hoàn toàn sụp đổ và CNQTH tiến sâu được 9 dặm (14 km) vào khu vực của quân Liên Hợp Quốc. Lính Trung Quốc dừng bước tiến của mình vào ngày 2 tháng 1.
Chiến sự tại Gapyeong và Chuncheon
Vào thời điểm bắt đầu trận đánh, Quân đoàn III Hàn Quốc đóng quân ở phía đông Sư đoàn 24 Bộ binh Hoa Kỳ thuộc Quân đoàn IX, bảo vệ Vĩ tuyến 38 ở phía bắc Gapyeong (Kapyong) và Chuncheon. Quân đoàn III có bốn sư đoàn, trong đó Sư đoàn 2 bộ binh bên sườn trái đóng tại các ngọn đồi phía bắc Gapyeong, trong khi Sư đoàn 5 Bộ binh bảo vệ khu vực trung tâm của Quân đoàn tại Chuncheon. đồng thời chặn ngang con đường giữa Chuncheon và Seoul. Sư đoàn 124 CNQTH trước tiên đánh thọc sườn Sư đoàn 2 bộ binh Hàn Quốc, sau đó chặn đường rút lui của sư đoàn này. Các Trung đoàn 17 và 32 của Sư đoàn 2 bị bao vây và buộc phải rút lui trong tình trạng hỗn loạn. Đến ngày 1 tháng 1, Quân đoàn III Hàn Quốc đã mất liên lạc với các Sư đoàn Bộ binh 2 và 5, trong khi phần còn lại của Quân đoàn III đang rút chạy về thị trấn Wonju. và Quân đội Nhân dân Triều Tiên đã phát động một cuộc tấn công riêng của họ vào thị trấn Wonju.
Di tản khỏi Seoul
thumb|right|Dân thường đang vượt qua con [[Sông Hán (Triều Tiên)|sông Hán bị đóng băng để xuống phía nam tránh cuộc tấn công của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1951.]] Sau các cuộc tấn công của CNQTH dọc theo vĩ tuyến 38, tướng Ridgway lo lắng rằng quân Trung Quốc sẽ khai thác đột phá khẩu tại Chuncheon để bao vây toàn bộ TĐQ số 8. Với sự sụp đổ của các vị trí phòng thủ Liên Hợp Quốc tại vĩ tuyến 38, cuộc triệt thoái đã bắt đầu từ ngày 1 tháng 1. Vào lúc 9 giờ sáng ngày 1 tháng 1, tướng Milburn ra lệnh cho Quân đoàn I của Hoa Kỳ rút lui về phòng tuyến "Bridgehead Line". Về phía đông của Quân đoàn I, tướng Coulter cũng đã ra lệnh rút Quân đoàn IX Hoa Kỳ vào lúc 2 giờ chiều và Lữ đoàn 27 Khối thịnh vượng chung Anh (gồm lính Anh – Úc) đóng vai trò bọc hậu. Một số lực lượng của CNQTH đã tìm cách bao vây Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Hoàng gia Úc của Lữ đoàn 27 Khối thịnh vượng chung Anh tại Uijeongbu trong khi tấn công Sư đoàn 6 Hàn Quốc, nhưng tiểu đoàn đã thoát khỏi vòng vây với chỉ bốn người bị thương. và Lữ đoàn 27 Khối thịnh vượng chung được điều đến phía sau Quân đoàn IX làm lực lượng dự phòng. Vào sáng ngày 3 tháng 1, tướng Bành ra lệnh cho Tập đoàn quân 13 tấn công về phía Seoul truy kích lực lượng Liên Hợp Quốc đang rút lui. Sư đoàn bộ binh 24, 25 của Hoa Kỳ và Lữ đoàn bộ binh 29 của Anh đã sớm chạm trán quân Trung Quốc. Trong khu vực của Quân đoàn IX Hoa Kỳ, Quân đoàn 38 CNQTH tấn công Sư đoàn 24 Bộ binh Hoa Kỳ khi lính Mỹ đang cố gắng rút lui. Trong cuộc chiến khốc liệt diễn ra sau đó, lính Mỹ thuộc Trung đoàn Bộ binh 19 Hoa Kỳ bên sườn trái của sư đoàn đã tham gia vào nhiều cuộc đấu cận chiến với lính Trung Quốc xung quanh Uijeongbu. Sau khi Sư đoàn 24 Hoa Kỳ di tản khỏi Seoul vào đêm ngày 3 tháng 1, Lữ đoàn 27 Khối thịnh vượng chung Anh bắt đầu vượt sông Hán vào sáng ngày 4 tháng 1, và đến 7 giờ 40 phút sáng, toàn bộ Quân đoàn IX Hoa Kỳ đã rời Seoul.
Bên sườn trái của Sư đoàn 24 Bộ binh Hoa Kỳ, Lữ đoàn Bộ binh 29 Anh thuộc Quân đoàn I Hoa Kỳ đã tham gia vào cuộc giao tranh khốc liệt nhất trong toàn bộ trận đánh. Nhiệm vụ đầu tiên của Lữ đoàn Bộ binh 29 trong Chiến tranh Triều Tiên là phải bảo vệ khu vực phía đông Koyang của phòng tuyến "Bridgehead Line". Tiểu đoàn 1, Trung đoàn súng trường Hoàng gia Ulster (Tiểu đoàn 1 RUR) bảo vệ sườn bên trái của lữ đoàn, trong khi Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Royal Northumberland Fusiliers (Tiểu đoàn 1 RNF) đóng tại sườn bên phải của lữ đoàn. Vào lúc 4 giờ sáng ngày 3 tháng 1, Tiểu đoàn 1 RUR chạm súng với Sư đoàn 149 của Quân đoàn 50 CNQTH. Quân Trung Quốc tấn công bất ngờ và tràn ngập vị trí các Đại đội B và D của Tiểu đoàn 1 RUR, nhưng Thiếu tá C. A. H. B. Blake của Tiểu đoàn 1 RUR đã mở một cuộc phản công nhằm chiếm lại các vị trí của tiểu đoàn vào buổi sáng. Chuẩn tướng Thomas Brodie của Lữ đoàn Bộ binh 29 đã đưa Đại đội W của Tiểu đoàn 1 RNF với bốn xe tăng Churchill đến tiếp cứu. Sau cuộc giao tranh, Lữ đoàn Bộ binh 29 có ít nhất 16 người chết, 45 người bị thương và 3 người mất tích
Trong khi Lữ đoàn Bộ binh 29 của Anh và Sư đoàn 149 CNQTH đang đụng trận ở phía đông Koyang, Sư đoàn 25 Bộ binh của Quân đoàn I Hoa Kỳ ở sườn trái của Lữ đoàn Bộ binh 29 bắt đầu rút quân. Kế hoạch di tản đòi hỏi sự phối hợp giữa Sư đoàn 25 Hoa Kỳ và Lữ đoàn Bộ binh 29 để tránh lính Trung Quốc xâm nhập các khu vực phía sau của quân Liên Hợp Quốc, nhưng tình hình chiến sự đã khiến điều này không thể diễn ra. Sau khi Trung đoàn 27 Bộ binh (Sư đoàn 25) đã bọc hậu phía sau Quân đoàn I Hoa Kỳ, Sư đoàn 25 và Lữ đoàn 29 Bộ binh được lệnh di tản lúc 3 giờ chiều ngày 3 tháng 1. nhưng Lữ đoàn 29 bộ binh chỉ có thể rút quân cho đến tận 9 giờ 30 tối. Lính Tiểu đoàn 1 RUR và Lực lượng Cooper hầu hết trong tình trạng không có vũ khí nhanh chóng bị lính Trung Quốc tàn sát. Lính Trung Quốc cũng tấn công các xe tăng Cromwell của Lực lượng Cooper bằng lựu đạn và ngư lôi Bangalore, làm cháy nhiều xe. và 208 lính Anh bị mất tích, hầu hết bị lính Trung Quốc bắt giữ. Trung đoàn 27 của Hoa Kỳ đã cố gắng giải cứu những người lính Anh bị mắc kẹt, nhưng tướng Brodie đã phải dừng việc giải cứu để ngăn không có thêm thương vong không cần thiết.
Sau khi Lữ đoàn 29 Bộ binh Anh rời Seoul vào lúc 8 giờ sáng ngày 4 tháng 1 Sau nhiều cuộc chạm súng ngoài ngoại ô Seoul, Trung đoàn 27 cũng vượt sông Hán bỏ thành phố vào lúc 2 giờ chiều ngày 4 tháng 1.
Tướng Ridgway thông báo cho các lực lượng của mình vào khoảng giữa trưa ngày 4 về khả năng các quân đoàn cùng rút lui về tuyến phòng thủ "Line D". Quân đoàn I và IX lúc 8 giờ tối rút về một vị trí khoảng 6–8 dặm (9,7–12,9 km) về phía nam của sông Hán và giữ vị trí này cho đến khi dọn sạch kho tiếp liệu của không quân và lục quân tại Suwon, cách 16 km về phía nam mà Ridgway dự kiến sẽ mất từ 24 đến 36 giờ. Hầu hết dân thường đã chạy trốn về phía nam, băng qua con sông Hán bị đóng băng hoặc di tản đến vùng nông thôn gần đó. Chính phủ Hàn Quốc tại Seoul cũng đã cắt giảm nhân sự thiết yếu trước trận chiến nên cũng rời khỏi thành phố không mấy khó khăn. Một trung đội Trung Quốc đã đến Tòa thị chính Seoul vào khoảng 1 giờ chiều và cắm cờ Triều Tiên lên đó. Vào ngày 5 tháng 1, tướng Bành đã ra lệnh cho Quân đoàn 50 CNQTH và Quân đoàn I Triều Tiên chiếm giữ Gimpo và Incheon trong khi chỉ thị tất cả các đơn vị khác dừng lại nghỉ ngơi ở bờ bắc sông Hán., Trung Quốc đã giành được một chiến thắng lớn trong trận Seoul lần thứ ba và khiến sĩ khí quân Liên Hợp Quốc xuống thấp nhất kể từ lúc Chiến tranh Triều Tiên bắt đầu. Tướng Ridgway cực kỳ thất vọng với những gì mà TĐQ số 8 Hoa Kỳ đã thể hiện. Theo đánh giá của Ridgway, đối thủ của ông không có gì ngoài quân số áp đảo, còn hỏa lực thì vừa yếu vừa thiếu với chủ yếu là vũ khí hạng nhẹ, không được không quân và thiết giáp yểm trợ. TĐQ số 8 Hoa Kỳ hoàn toàn đủ sức mạnh và phương tiện để đè bẹp đối thủ, tuy nhiên các chỉ huy trưởng dưới quyền không tự tin được như của Ridgway. Cùng lúc đó vào ngày 17 tháng 1, MacArthur cũng bỏ kế hoạch cho quân Liên Hợp Quốc rút khỏi bán đảo Triều Tiên và quyết tâm tiếp tục chiến đấu.
Tại Liên Hợp Quốc, mặc dù ban đầu các thành viên Liên Hợp Quốc và Hoa Kỳ bị chia rẽ về việc sẽ phản ứng như thế nào trước sự can thiệp của Trung Quốc vào Triều Tiên, việc Trung Quốc từ chối lệnh ngừng bắn của Liên Hợp Quốc đã khiến các thành viên Liên Hợp Quốc ngả về phía Hoa Kỳ. Một nghị quyết của Liên Hợp Quốc lên án Trung Quốc là bên xâm lược đã được thông qua vào ngày 1 tháng 2. Phó chỉ huy CNQTH Hàn Tiên Sở sau đó đã báo cáo với tướng Bành rằng mặc dù CNQTH chỉ chịu thương vong ít là 8.500 quân Tin rằng lực lượng Liên Hợp Quốc đã bị mất tinh thần và không thể phản công, chủ tịch Mao đã cho phép CNQTH được nghỉ ngơi ít nhất hai đến ba tháng, trong khi tướng Bành và các chỉ huy Trung Quốc khác lên kế hoạch cho một chiến dịch quyết định cuối cùng vào mùa xuân năm 1951. Tuy nhiên, Ridgway và TĐQ số 8 sớm dập tắt sự lạc quan của Trung Quốc bằng Chiến dịch Thunderbolt bắt đầu vào ngày 25 tháng 1 năm 1951.