Bản đồ trận Angaur
Trận Angaur là một trận đánh trong Chiến tranh Thái Bình Dương, một phần của chiến tranh thế giới lần thứ 2, diễn ra trên hòn đảo Angaur thuộc quần đảo Palau từ 17 tháng 9 năm 1944 đến 30 tháng 9 năm 1944.
Bối cảnh
Angaur là một hòn đảo núi lửa nhỏ bé, chỉ với 3 dặm (4,8 km) chiều dài, cách cực nam của đảo Peleliu chỉ 6 dặm (9,7 km). Tại đây có một cộng đồng nhỏ dân cư bản địa sống bằng nghề đánh bắt cá, trồng trọt và khai thác phosphate. Vào giữa năm 1944, trên đảo có sự hiện diện của 1.400 lính Nhật, dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh khu vực quần đảo Palau, Trung tướng Sadae Inoue.
Điểm yếu phòng thủ của quần đảo Palau chính là số sân bay đang được xây dựng ở đây cùng với sự hiện diện của các phi cơ khiến cho nơi này dễ trở thành mục tiêu tiềm tàng cho quân Mỹ sau chiến thắng của họ ở quần đảo Marshall. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là chiến dịch đánh chiếm quần đảo Palau chưa thể bắt đầu cho đến khi quân Nhật ở quần đảo Mariana bị vô hiệu hóa.
Diễn biến
Các cuộc dội bom lên Angaur được thực hiện bởi USS Tennessee, các tuần dương hạm, và máy bay ném bom kiểu bổ nhào Dauntless xuất phát từ USS Wasp bắt đầu từ ngày 11 tháng 9 1944. Sáu ngày sau đó vào 17 tháng 9, Sư đoàn Bộ binh 81 của Mỹ được chỉ huy bởi Trung tướng Paul J. Mueller bờ biển Đông bắc và Đông nam của đảo. Tuy nhiên khi mới đổ bộ, bãi mìn và sự tắc nghẽn của quân Mỹ tại bãi biển lại gây cho họ khó khăn hơn là sự tấn công của quân Nhật. Nhưng sự chống trả càng quyết liệt khi lính Mỹ tiến về "Cái Bát", một ngọn đồi gần hồ Salome nằm phía Tây bắc của đảo. Đây chính là nơi mà quân Nhật dự định sẽ quyết chiến cuối cùng trên đảo. Từ 20 tháng 9 Tiểu đoàn 322 liên tục tấn công lên ngọn vị trí này, nhưng 750 quân Nhật tại đây liên tiếp đẩy lùi lính Mỹ bằng pháo, súng cối và súng máy. Dần dần thương vong quân Nhật ngày càng tăng cao bởi cái đói, khát và nhất là đạn pháo và bom Mỹ liên tục dội xuống, và đến ngày 25 tháng 9 quân Mỹ đã thâm nhập được vào vị trí phòng thủ cuối cùng này. Thay vì chiến đấu để giành giật từng công sự một, người Mỹ đã dùng đến xe ủi đất để lấp lối vào các hang động nơi quân Nhật đang cố thủ. Đến 30 tháng 9, hòn đảo thì được tuyên bố an toàn.
Kết quả
Sân bay trên đảo sau khi rơi vào tay người Mỹ lập tức được tiếp tục xây dựng trong khi cuộc chiến vẫn đang diễn ra. Nhưng sự trì hoãn của chiến dịch quần đảo Palau khiến cho sân bay vẫn chưa được hoàn thành để chuẩn bị cho chiến dịch Philippines vào tháng 10 năm 1944. Đô đốc William F. Halsey, Jr. đã tranh luận rằng một chiến dịch như thế là không cần thiết về mặt chiến lược, và phần lớn các nhà sử học sau này đều đồng ý với ý kiến của ông, nhưng ông cũng thừa nhận lợi ích lớn nhất của chiến dịch là Sư đoàn Bộ binh 81 thu nhận được nhiều kinh nghiệm chiến trường khi chiến đấu với quân Nhật.
Ngay sau khi trận đánh vừa kết thúc, Sư đoàn Bộ binh 81 được cử đến trực tiếp đảo Peleliu để tăng viện cho Sư đoàn Thủy quân Lục chiến số 1 của Hoa Kỳ đang vấp phải sự chống trả vô cùng ác liệt của quân Nhật ở Peleliu.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Bản đồ trận Angaur **Trận Angaur** là một trận đánh trong Chiến tranh Thái Bình Dương, một phần của chiến tranh thế giới lần thứ 2, diễn ra trên hòn đảo Angaur thuộc quần đảo
**Trận Peleliu** có mật danh là **Chiến dịch Stalemate II** là một trận chiến giữa quân đội Hoa Kỳ và Nhật Bản trong chiến tranh Thái Bình Dương, Thế chiến thứ 2 diễn ra từ
phải|Bản đồ phân chia các khu vực chỉ huy quân sự của Hoa Kỳ thuộc Mặt trận Thái Bình Dương và [[Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai|Tây
thumb|Bản đồ của Bang Angaur trong Palau (nơi truyền thống). thumb|Vị trí của Angaur (phía trên bên phải) hay **Ngeaur** là một hòn đảo trong đảo quốc Palau. Hòn đảo, hình thành nên nhà nước
**USS _Tennessee_ (BB-43)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II, là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của hải
(ngày 5 tháng 11 năm 1886 - ngày 26 tháng 10 năm 1961) là tướng của Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ 2. Ông đã chỉ huy quân đội Nhật Bản
**USS _Pennsylvania_ (BB-38)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó thuộc thế hệ các thiết giáp hạm "siêu-dreadnought"; và là chiếc tàu chiến thứ
**USS _McNair_ (DD-679)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Cushing_ (DD-797)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ
**Chiến dịch Quần đảo Mariana và Palau** là một loạt các trận phản kích của Hoa Kỳ chống lại các lực lượng Đế quốc Nhật Bản tại quần đảo Mariana và Palau ở Thái Bình
**USS _Welles_ (DD-628)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**USS _Rathburne_ (DD–113)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**Palau** (, phiên âm: _"Pa-lao"_, còn được viết là **Belau**, **Palaos** hoặc **Pelew**), tên chính thức là **Cộng hòa Palau** (, ), là một đảo quốc ở Tây Thái Bình Dương. Nước này bao gồm
**USS _Halford_ (DD-480)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Robinson_ (DD-562)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Lardner_ (DD-487)**, là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**USS _Maury_ (DD-401)** là một tàu khu trục lớp _Gridley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Remey_ (DD-688)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _McDermut_ (DD-677)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Kalinin Bay_ (CVE-68)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo một vịnh trên
**USS _Gambier Bay_ (CVE-73)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo một vịnh tại
**USS _Hovey_ (DD-208/DMS-11)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai được cải biến
**USS _Caperton_ (DD-650)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS (CVE-71)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. _Kitkun Bay_ đã hoạt động cho đến hết Thế Chiến
**USS _Wadsworth_ (DD-516)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Albert W. Grant_ (DD-649)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Benham_ (DD-796)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ
**USS _Woodworth_ (DD-460)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Say chiến tranh, nó được chuyển giao cho
**USS _Stephen Potter_ (DD-538)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Monssen_ (DD-798)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Farenholt_ (DD-491)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _Donaldson_ (DE-44)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba được đặt
**USS _McGowan_ (DD-678)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Twiggs_ (DD-591)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Marcus Island_ (CVE-77)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo đảo Marcus (Minami
là một lãnh phận ủy trị Hội Quốc Liên gồm một vài nhóm quần đảo (nay là Palau, Quần đảo Bắc Mariana, Liên bang Micronesia, và Quần đảo Marshall) tại Thái Bình Dương nằm dưới
**USS _Stringham_ (DD–83/APD-6)** là một tàu khu trục lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nó lại tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Straus_ (DE-408)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Long_ (DD-209/DMS-12)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai được cải biến
**USS _George E. Badger_ (DD-196/CG-16/AVP-16/AVD-3/APD-33)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất; từng phục vụ cho Lực lượng Tuần duyên
**USS _Montgomery_ (DD–121)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ
**USS _Mertz_ (DD-691)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Alvin C. Cockrell_ (DE-366)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu
**USS _Hudson_ (DD-475)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Bailey_ (DD-492)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của
**Bão Choi-wan** (tên JTWC: _04W_, tên Philippines: _Dante_) và Việt Nam gọi là **_Bão số 1_**. Choi-wan là cơn bão nhiệt đới đầu tiên trên Biển Đông, gây ra lũ lụt và thiệt hại vừa